Đây cũng là khu vực có nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển bền vững với nhiều loại tài nguyên, khoáng sản quý, hiếm, nhiều di sản văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số để phát triển du lịch và bảo vệ môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ. Tuy nhiên, điều đáng suy ngẫm là các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc vẫn đang là vùng nghèo nhất cả nước.
Những biểu hiện của “không ít hạn chế”
Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ gồm các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Quảng Ninh và 22 huyện, thị xã của Nghệ An, Thanh Hóa. Vùng có đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Thượng Lào, phía Đông giáp Vùng Đồng bằng sông Hồng, phía Nam giáp Bắc Trung Bộ; tổng diện tích toàn vùng khoảng 116.898 km2, chiếm 35% diện tích tự nhiên của cả nước, có hơn 30 dân tộc sinh sống với tổng dân số là 14,7 triệu người, chiếm khoảng 15,2% dân số cả nước.
Ngày 15/4, tại Trụ sở Trung ương Đảng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tổ chức hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: Sau 17 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị khóa IX và khóa XI, các địa phương ở trung du và miền núi Bắc Bộ đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của vùng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, vùng cũng còn không ít hạn chế.
Một trong những biểu hiện cơ bản của "không ít hạn chế" ở Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là tình trạng kinh tế còn nhiều khó khăn, thu nhập bình quân đầu người thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là ở nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Như lời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đây là "vùng trũng" trong phát triển và là "lõi nghèo" của cả nước.
Các địa phương ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc có những nét riêng biệt về địa hình so với các vùng lãnh thổ khác trên đất nước ta. Vùng này bao gồm nhiều dãy núi trùng điệp, hùng vĩ như dãy núi Hoàng Liên Sơn được mệnh danh là “mái nhà của Đông Dương”, với đỉnh Fanxipan cao 3.142m và hàng chục đỉnh núi khác có độ cao trên dưới 3.000m.
Phía Tây Bắc là khu vực có địa hình núi cao và hiểm trở, phía Đông Bắc là khu vực có địa hình núi trung bình và thấp, kèm với nhiều dãy núi hình cánh cung. Địa hình của vùng nhìn chung hiểm trở, chia cắt, nhất là ở phía Tây Bắc, giao thông đi lại khó khăn.
Trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng có khí hậu khá khắc nghiệt, thất thường, thường xuyên mưa bão, rét đậm và lũ quét. Hơn thế nữa, do việc khai thác tài nguyên rừng bừa bãi khiến cho rừng ngày càng suy kiệt, dẫn đến sói mòn, sạt lở đất… Các tài nguyên khoáng sản đang dần dần cạn kiệt, số lượng tích trữ nhỏ dần nhưng rác thải và ô nhiễm lại đang tăng với con số đáng báo động.
Trung du và miền núi Bắc Bộ là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người như: Tày, Mường, Nùng, Mông, Dao, Thái… Mật độ dân số ở miền núi vào khoảng 50 – 100 người/km2, có sự hạn chế về thị trường tại chỗ và về lao động, nhất là lao động lành nghề, nhiều chỉ số về văn hóa, xã hội đạt mức thấp hơn trung bình toàn quốc, dù chỉ chiếm hơn 15% dân số song các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc lại chiếm tới 40% số người nghèo của cả nước.
Mật độ doanh nghiệp của vùng này đang rất thấp, chỉ bằng 1/3 mật độ chung cả nước. Có tới 5 tỉnh trong khu vực đứng trong nhóm 10 địa phương có chỉ số PCI (năng lực cạnh tranh cấp tỉnh) thấp nhất toàn quốc. Đồng thời, sự phát triển kinh tế của các địa phương chưa đồng đều. Số lượng doanh nghiệp hoạt động thấp, đa phần là những doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ. Việc quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp còn chưa mang tính vùng, chưa đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, hạ tầng kinh tế - xã hội, đang tạo sức ép lớn đối với môi trường.
Nhìn chung, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có quy mô kinh tế còn nhỏ so với các vùng khác; tăng trưởng kinh tế chưa bền vững; chuyển dịch cơ cấu kinh tế của phần lớn các địa phương chậm; tỷ lệ lấp đầy các khu, cụm công nghiệp thấp; việc cơ cấu lại ngành nông nghiệp và đổi mới mô hình sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, hiệu quả thấp; các mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị nông sản giữa doanh nghiệp và nông dân chưa nhiều…
Tựu trung, Vùng Tung du và miền núi Bắc Bộ còn nhiều tiềm năng, lợi thế, nhưng chưa được khai thác và phát triển xứng tầm. Một trong những nguyên nhân là các cơ chế, chính sách đầu tư, phát triển vùng từ Trung ương phát huy tác dụng chưa nhiều, còn các địa phương thuộc vùng lại chưa phát huy tính chủ động, phát huy nội lực.
Muốn đi nhanh và đi xa thì hãy đi cùng nhau
Theo các chuyên gia kinh tế, nếu không có liên kết nội vùng, liên vùng thì tất cả vấn đề liên quan đến phối hợp, phát huy thế mạnh của từng địa phương, từng vùng với nhau sẽ rất khó khăn trong việc triển khai do thiếu cơ sở pháp lý. Bên cạnh đó, cần có sự đánh giá về thực trạng các nguồn lực, hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực cho phát triển vùng trong thời gian qua, nhất là các nguồn lực đầu tư công và nguồn lực đầu tư ngoài ngân sách cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông.
Đồng thời, cũng cần có sự phân tích, đánh giá ưu điểm, hạn chế của những cơ chế, chính sách về thu hút và phân bổ các nguồn lực đang được thực hiện trong vùng, trên cơ sở đó, đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển đặc thù, phù hợp trong thời gian tới.
Việc đầu tư cần có trọng tâm trọng điểm, ưu tiên các dự án có tính liên kết lan tỏa và hạ tầng giao thông. Cần có cơ chế, chính sách đặc thù để khuyến khích và thu hút được đầu tư của xã hội, tạo nguồn lực phát triển cho vùng.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một trong những nguyên nhân liên kết vùng thời gian qua chưa đạt hiệu quả là do chưa có cơ chế liên kết, điều phối vùng, dẫn đến một số địa phương gặp phải vấn đề “xung đột lợi ích”, chưa xem xét việc phối hợp trong lợi ích tổng thể của cả vùng, mà cát cứ, cục bộ, “mạnh ai nấy làm” nên xảy ra tình trạng không những không liên kết, hợp tác, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau phát triển, mà trái lại, còn làm giảm động lực tăng trưởng, không khai thác, phát huy được các tiềm năng, lợi thế của cả vùng.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ: Để khắc phục những hạn chế nêu trên thì cần tuân thủ đúng quy trình lập quy hoạch và tăng cường sự tham gia, phối hợp của các bên liên quan. Theo đó, Luật Quy hoạch tạo ra bước chuyển mới trong công tác quy hoạch, đặc biệt là quy định về quy hoạch vùng như một cấp quan trọng trong hệ thống quy hoạch quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, nhấn mạnh đến yếu tố không gian phát triển, gắn với đó là quy trình lập quy hoạch được tiếp cận theo hướng tích hợp, đa ngành và coi trọng sự tham gia phối hợp của các bộ, ngành, địa phương để xử lý, giải quyết các vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng.
Tiếp theo, cần thể hiện rõ nét định hướng liên kết phát triển vùng trong xây dựng quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh; thể hiện rõ yêu cầu liên kết, vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng địa phương trong quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh để triển khai trong thực tiễn, bảo đảm mục tiêu kế hoạch đề ra. Nội dung các quy hoạch cần có sự thống nhất và phân chia một cách hợp lý mục tiêu phát triển, thu hút đầu tư giữa các địa phương để hạn chế tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh, không nhất thiết tỉnh nào cũng phải có sân bay, cảng biển hay đường cao tốc.
Vấn đề cần quan tâm là kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông - một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các địa phương trong vùng. Nút thắt lớn nhất đối với sự phát triển của vùng là sự yếu và thiếu của hệ thống giao thông kết nối nội vùng, kết nối vùng với Thủ đô Hà Nội và đồng bằng sông Hồng và kết nối với thị trường Trung Quốc.
Tiếp nữa là việc thúc đẩy liên kết khu vực động lực, các chuỗi liên kết kinh tế, chuỗi sản phẩm. Theo đó, cần định hướng phát triển vùng động lực của toàn vùng, từ đó lan tỏa, kích thích kinh tế các khu vực lân cận; định hướng liên kết các chuỗi kinh tế, các chuỗi sản phẩm mang quy mô vùng.
Cần tạo sự liên kết trong phát triển đô thị và nông thôn, gắn với khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Theo đó, phát triển và phân bố hợp lý hệ thống đô thị trên địa bàn cả vùng, có tính liên kết tổng thể chặt chẽ, xác định rõ vai trò, chức năng của từng đô thị, nhất là đô thị động lực đối với hệ thống đô thị và vùng nông thôn phụ cận; tập trung đầu tư các dự án hạ tầng đô thị trọng điểm, các vùng đô thị động lực để lan tỏa, thúc đẩy khu vực phụ cận phát triển; gắn kết các khu đô thị với xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp.
Vấn đề cuối cùng là huy động nguồn lực đầu tư bảo đảm thực thi các dự án vùng, liên vùng. Theo đó, cần tiếp tục ưu tiên các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, gồm cả vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho vùng để đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội lớn, quan trọng. Còn đối với nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước thì cần nghiên cứu cơ chế đặc thù ưu đãi thỏa đáng để thu hút đầu tư vào Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ - khu vực kém cạnh tranh nhất cả nước.
Bài cuối: Đánh thức 'vùng đất Chín Rồng'