Nghị định quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên biển có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước về biển và hải đảo. Phóng viên TTXVN đã có cuộc phỏng vấn ông Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) về những nội dung mới của Nghị định.
Nghị định số 11/2021/NĐ-CP của Chính phủ có ý nghĩa thế nào và những điểm mới là gì, thưa ông?
Ngày 10/2/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2021/NĐ-CP quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên biển, thay thế Nghị định số 51/2014/NĐ-CP ngày 21/5/2014 của Chính phủ và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/3/2021. Nghị định số 11/2021/NĐ-CP khắc phục được những tồn tại, hạn chế, bất cập của Nghị định số 51/2014/NĐ-CP ngày 21/5/2014 của Chính phủ và đã kịp thời hướng dẫn việc giao khu vực biển theo quy định của Luật Biển Việt Nam và giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản theo quy định của Luật Thủy sản năm 2017.
Có thể nói, Nghị định là một trong những văn bản quan trọng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo theo tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; góp phần hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước.
Nghị định số 11/2021/NĐ-CP có một số quy định mới như: Quy định tất cả các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển của các tổ chức, cá nhân có phạm vi từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm ra đến hết các vùng biển Việt Nam theo văn bản cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định (trừ việc sử dụng khu vực biển vào mục đích quốc phòng, an ninh không thuộc phạm vi điều chỉnh). Như vậy, tất cả các hoạt động sử dụng tài nguyên biển đều phải tiến hành giao khu vực biển theo quy định của Nghị định.
Nghị định đã lược bỏ phương pháp xác định khoảng cách vùng biển theo phương vĩ tuyến trong Nghị định số 51/2014/NĐ-CP bằng phương pháp mới phù hợp hơn để bảo đảm khoảng cách của vùng biển 3 hải lý, vùng biển 6 hải lý tính từ đường cách đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm. Đồng thời, quy định ranh giới khu vực biển được xác định bởi đường khép kín bao gồm các đoạn thẳng nối các điểm khép góc có tọa độ cụ thể và được thể hiện trên nền bản đồ địa hình đáy biển do Bộ Tài nguyên và Môi trường xuất bản với tỷ lệ thích hợp.
Nghị định nêu rõ, diện tích khu vực biển giao cho tổ chức, cá nhân được xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể trên cơ sở các yếu tố: Nhu cầu sử dụng khu vực biển của tổ chức, cá nhân; diện tích để khai thác, sử dụng tài nguyên biển theo văn bản cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Báo cáo kết quả thẩm định hồ sơ đề nghị giao khu vực biển của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và hành lang an toàn của các công trình, thiết bị (nếu có) theo quy định của pháp luật chuyên ngành. Nghị định đã quy định trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường xác định, công bố đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm, đường ranh giới ngoài của vùng biển 3 hải lý, vùng biển 6 hải lý của đất liền và đảo có diện tích lớn nhất thuộc các huyện đảo.
Nghị định đã quy định việc giao khu vực biển phải căn cứ vào quy hoạch thứ tự ưu tiên áp dụng các quy hoạch khi xem xét, quyết định giao khu vực biển. Thời hạn giao khu vực biển không quá 30 năm, có thể được gia hạn nhiều lần nhưng tổng thời gian của các lần gia hạn không quá 20 năm. Đồng thời, Nghị định đã quy định đối với dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư mà có thời hạn đầu tư trên 30 năm, thời hạn giao khu vực biển được xem xét, quyết định trên 30 năm nhưng không vượt quá thời hạn đầu tư ghi trên văn bản chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (trừ dự án đầu tư nuôi trồng thủy sản trên biển).
Những cơ quan nhà nước và cấp chính quyền nào có thẩm quyền giao khu vực biển, thưa ông?
Thẩm quyền giao khu vực biển được Chính phủ giao cho 4 cơ quan nhà nước và cấp có thẩm quyền gồm: Thủ tướng Chính phủ quyết định giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư khai thác, sử dụng tài nguyên biển thuộc thẩm quyền chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, trừ các trường hợp giao khu vực biển sử dụng để nhận chìm ở biển, nuôi trồng thủy sản trên biển.
Bộ Tài nguyên và Môi trường quyết định giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư khai thác, sử dụng tài nguyên biển thuộc thẩm quyền chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ; khu vực biển liên vùng; khu vực biển có phạm vi nằm ngoài vùng biển 6 hải lý tính từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm của đất liền và các đảo theo quy định và khu vực biển do nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đề nghị giao để thực hiện các dự án đầu tư khai thác, sử dụng tài nguyên biển.
UBND cấp tỉnh có biển quyết định giao khu vực biển nằm trong phạm vi vùng biển 6 hải lý tính từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm của đất liền và các đảo theo quy định, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giao khu vực biển của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
UBND cấp huyện có biển chỉ quyết định giao khu vực biển cho cá nhân Việt Nam phải chuyển đổi từ nghề khai thác ven bờ sang nuôi trồng thủy sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc thường trú trên địa bàn mà nguồn sống chủ yếu dựa vào thu nhập từ nuôi trồng thủy sản được UBND cấp xã nơi thường trú xác nhận trong phạm vi vùng biển 3 hải lý với hạn mức giao khu vực biển không quá 1 ha.
Nghị định đã quy định các trường hợp không phải giao khu vực biển gồm: các hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân Việt Nam (trừ trường hợp hoạt động nghiên cứu khoa học sử dụng khu vực biển cố định và hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam); hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển; hoạt động khai thác thủy sản, khắc phục hậu quả trực tiếp do thiên tai, sự cố môi trường gây ra trên biển không phải giao khu vực biển. Theo phạm vi, thẩm quyền giao khu vực biển, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 8 Nghị định này xem xét, chấp thuận bằng văn bản về vị trí, ranh giới, diện tích, tọa độ, độ sâu, thời gian sử dụng khu vực biển để tổ chức, cá nhân Việt Nam thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học; đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển.
Nghị định số 11/2021/NĐ-CP bổ sung quy định mới là “Công nhận khu vực biển” đối với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu công nhận các khu vực biển đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất có mặt nước ven biển, mặt nước biển theo quy định của pháp luật trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, việc công nhận được thể hiện bằng Quyết định giao khu vực biển; trường hợp chưa có nhu cầu công nhận, tổ chức, cá nhân đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bản cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển theo quy định của pháp luật trước ngày 15/7/2014 và đang sử dụng khu vực biển tiếp tục được sử dụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ cho đến hết thời hạn giao, cho thuê theo quy định của pháp luật.
Những hoạt động sử dụng khu vực biển nào không phải nộp tiền sử dụng biển, thưa ông?
Theo Nghị định số 11/2021/NĐ-CP, các hoạt động không phải nộp tiền sử dụng biển gồm: Sử dụng khu vực biển làm vùng nước trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo đậu, khu chuyển tải, khu tránh bão, vùng đón trả hoa tiêu, vùng kiểm dịch, luồng hàng hải, các công trình phụ trợ khác để phục vụ lợi ích công cộng và các kết cấu hạ tầng hàng hải khác được đầu tư bằng ngân sách nhà nước để phục vụ lợi ích công cộng. Sử dụng khu vực biển được quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật Thủy sản; khu vực biển cố định để thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; khu vực biển cho các khu bảo tồn biển, khu vực khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, khu bảo tồn đất ngập nước.
Ngoài ra, sử dụng khu vực biển để tìm kiếm, thăm dò dầu khí; sử dụng khu vực biển để khai thác dầu khí, vận chuyển tài nguyên dầu khí khai thác được trong các vùng biển của Việt Nam về bờ bằng đường ống theo hợp đồng chia sản phẩm dầu khí và quyết định của Thủ tướng Chính phủ (bao gồm cả các hoạt động sử dụng khu vực biển phục vụ trực tiếp cho các hoạt động khai thác, vận chuyển dầu khí: sử dụng khu vực biển để lắp đặt giàn khai thác, làm cảng dầu khí, xây dựng hệ thống đường ống dẫn dầu khí, đường ống nội mỏ và các công trình phụ trợ trực tiếp khác) không phải nộp tiền sử dụng biển.
Sử dụng khu vực biển để nhận chìm chất nạo vét của vùng nước trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo đậu, khu chuyển tải, khu tránh bão, vùng đón trả hoa tiêu, vùng kiểm dịch, luồng hàng hải và các công trình phụ trợ khác để phục vụ lợi ích công cộng và các kết cấu hạ tầng hàng hải khác được đầu tư bằng ngân sách nhà nước để phục vụ lợi ích công cộng; khu vực biển để xây dựng, lắp đặt, vận hành các công trình phục vụ lợi ích quốc gia, công cộng cũng không phải nộp tiền sử dụng biển.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ sẽ quyết định việc miễn tiền sử dụng khu vực biển với các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trình.
Đối với các hoạt động sử dụng khu vực biển phải trả tiền, khung giá và mức thu sử dụng thế nào, thưa ông?
Ngoài các trường hợp trên, các hoạt động sử dụng khu vực biển khi được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao khu vực biển đều phải nộp tiền sử dụng khu vực biển với khung giá và mức thu sử dụng khu vực biển như sau: Khung giá tiền sử dụng khu vực biển và mức thu tiền sử dụng khu vực biển được phân thành 6 nhóm: Sử dụng khu vực biển để nhận chìm từ 15.000-20.000 đồng/m3 (Nhóm 1); các hoạt động khác có khung giá tiền sử dụng khu vực biển từ 3.000.000-7.500.000 đồng/ha/năm (Nhóm 2 đến Nhóm 6).
Căn cứ khung giá tiền sử dụng khu vực biển và điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể trong thời hạn không quá 90 ngày kể từ ngày Nghị định có hiệu lực thi hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh ban hành 5 năm một lần mức thu tiền sử dụng khu vực biển cụ thể đối với từng nhóm sử dụng khu vực biển trên địa bàn tỉnh thuộc thẩm quyền giao khu vực biển của UBND cấp tỉnh.
Tiền sử dụng khu vực biển được tính từ thời điểm Quyết định giao khu vực biển của cơ quan nhà nước có hiệu lực thi hành và tổ chức, cá nhân được lựa chọn hình thức nộp tiền hàng năm, 5 năm đối với các trường hợp sử dụng khu vực biển hoặc một lần cho cả thời hạn được giao đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản. Trường hợp sử dụng khu vực biển để nhận chìm, tổ chức, cá nhân phải nộp một lần toàn bộ số tiền sử dụng khu vực biển.
Trường hợp trong cùng khu vực biển có nhiều hoạt động sử dụng khu vực biển theo các mục đích khác nhau nhưng không xác định được diện tích riêng cho mỗi mục đích sử dụng sẽ áp dụng mức thu cao nhất trong số các mục đích sử dụng để tính tiền sử dụng trong khu vực biển được giao cho tổ chức, cá nhân. Đối với hoạt động sử dụng khu vực biển chưa có quy định mức thu tiền sử dụng khu vực biển cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh quyết định từng trường hợp cụ thể nhưng không thấp hơn 3.000.000 đồng/ha/năm và không cao hơn 7.500.000 đồng/ha/năm. Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ điều chỉnh khung giá tiền sử dụng khu vực biển trong từng thời kỳ cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội.
Trân trọng cảm ơn ông!