Việt Nam được đánh giá là một trong những Trung tâm điện gió ngoài khơi của thế giới và có nhiều lợi thế để phát triển loại hình năng lượng này. Song trong Đề án “Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII), công suất điện gió ngoài khơi chỉ từ 2-3 GW đến năm 2030, chiếm từ 1,45% đến 2% trong tổng công suất đện đến năm 2030. Vậy tỷ lệ này có tạo ra rào cản trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực điện gió?
Với tiềm năng và lợi thế, việc phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam trong Dự thảo Quy hoạch điện VIII được nhiều chuyên gia và doanh nghiệp đánh giá là một trong những giải pháp giúp Việt Nam có thể đảm bảo mục tiêu cung cấp đủ điện với giá điện ngày càng giảm, không phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, tạo ra nhiểu công việc mới, giảm phát thải khí các bon theo cam kết của Chính phủ.
Tại Vương quốc Anh, giá điện từ điện gió ngoài khơi có mức giảm nhanh nhất so với điện gió trên bờ và điện mặt trời, từ 140 Bảng Anh/MWh năm 2010 xuống còn 107 Bảng Anh năm 2016 và 57 Bảng Anh năm 2020, giảm khoảng 60% sau 10 năm và xu thế giảm giá sẽ nhanh hơn trong thời gian tới, thấp hơn giá điện than.
Theo báo cáo của Hiệp hội gió toàn cầu (GWEC) năm 2010, giá điện gió ngoài khơi từ 255 USD/MWh xuống còn 83 USD năm 2020 (giảm 67,5%) và dự kiến còn 58 USD vào năm 2025 (giảm tiếp 30,1%).
Lần đầu tiên ở Việt Nam, việc xác định khái niệm dự án điện gió ngoài khơi (là khu vực có độ sâu đáy biển lớn hơn 20m), công suất nguồn điện từ điện gió ngoài khơi tách biệt với điện gió trên bờ và gần bờ đã được nêu trong dự thảo Quy hoạch điện VIII.
Theo Dự thảo này, mặc dù tỷ trọng năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) chiếm gần 30% trong tổng nguồn điện đến năm 2030, quy mô công suất nguồn điện gió tăng gấp 3 lần và nguồn điện mặt trời gần gấp 2 lần so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh, nhưng chủ yếu là điện gió trên bờ và gần bờ tăng 9 GW, điện mặt trời thêm 7 GW.
Đối với điện gió ngoài khơi, kịch bản phụ tải cơ sở thì đến năm 2030, công suất đặt là 2 GW trong tổng số 137,662 GW, chiếm tỷ lệ 1,45%; còn theo kịch bản phụ tải cao thì đến năm 2030, công suất đặt là 3 GW trong tổng số 147,552 GW, chiếm tỷ lệ 2%.
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng lý thuyết - kỹ thuật 475 GW điện gió ngoài khơi. Còn theo Cơ quan năng lượng Đan Mạch, Việt Nam có tiềm năng hoàn toàn khả thi là 162 GW; trong đó 132 GW điện gió ngoài khơi ở khu vực độ sâu đáy biển dưới 50 m và 30 GW dùng công nghệ móng nổi.
Vì vậy, các Tổ chức này đều kiến nghị Việt Nam nên tăng công suất đặt điện gió ngoài khơi đến năm 2030 là 10 GW để phù hợp với điều kiện và quy mô đủ lớn cũng để thu hút các nhà đầu tư phát triển các dự án điện gió ngoài khơi
Theo Dự thảo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam đang cần lượng vốn đầu tư khoảng 128 tỷ USD đến năm 2030 vào nguồn điện và lưới điện. Việc phát triển các dự án điện gió ngoài khơi còn là kênh thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành điện lực-công nghiệp nói riêng.
Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho hay, với suất đầu tư từ 2,5 - 3 tỷ USD/GW điện gió ngoài khơi, Việt Nam hoàn toàn có thể thu hút hàng trăm tỷ USD trong thập niên tới. Tỷ lệ nội địa hóa tới 50% có thể tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững trong lĩnh vực này.
Bên cạnh việc đánh giá cao Nghị Quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng Quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, hiện nay các nhà đầu tư đang rất cần các chính sách đột phá, hỗ trợ của Chính phủ trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Cụ thể, từ việc bổ sung quy hoạch, lựa chọn nhà đầu tư đến việc ký hợp đồng mua bán điện theo thông lệ quốc tế, ưu tiên áp dụng cho các dự án khả thi trước để làm cơ sở hoàn thiện hành lang pháp lý, áp dụng rộng rãi, theo kiến nghị của Ngân hàng thế giới và Cơ quan năng lượng Đan Mạch.
Trong đó, tỉnh Bình Thuận, Hiệp hội năng lượng Việt Nam và Đại sứ quán Anh tại Việt Nam từ năm 2019 đến nay đã có nhiều kiến nghị với Chính phủ, Bộ Công thương quan tâm hỗ trợ dự án điện gió ngoài khơi như: Thăng Long Wind của Tập đoàn Enterprize Energy (EE) tại tỉnh Bình Thuận với quy mô 3,4 GW, tổng mức đầu tư là 11,9 tỷ USD. Ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, đây là dự án đột phá cho lĩnh vực điện gió ngoài khơi của Việt Nam, phát điện giai đoạn 1 năm 2025 và giai đoạn cuối vào năm 2030.
Cùng với đó, đây cũng là dự án duy nhất cho đến nay được Thủ tướng Chính phủ cấp giấy phép khảo sát và Bộ Công Thương đã hoàn tất việc thẩm định hồ sơ bổ sung quy hoạch.
Ông Ian Hatton, Chủ tịch Tập đoàn Năng lượng Enterprize Energy cho biết, kết quả đo gió 12 tháng liên tục bình quân là 9,7m/s đã khẳng định tiềm năng to lớn của điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Tập đoàn cũng đã thống nhất các chế độ, chính sách với ngư dân tỉnh Bình Thuận, hoàn tất giai đoạn một trong chiến dịch khảo sát biển.
Như vậy, với các kết quả đo gió, khảo sát biển từ trên không và khảo sát biển sử dụng tàu và các thiết bị chuyên dụng, Tập đoàn EE đang chuẩn bị các số liệu cần thiết để đề xuất xin giấy phép đầu tư dự án.
Theo các văn bản Tập đoàn EE gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương và tỉnh Bình Thuận, Tập đoàn này cũng đã sẵn sàng đầu tư lưới điện 500 KV từ Bình Thuận về Đồng Nai và Bình Dương để đảm bảo đồng bộ cho dự án. Đây cũng là nhà đầu tư nước ngoài duy nhất cho đến nay đề xuất chính thức về vấn đề này, phù hợp với chủ trương xã hội hóa trong việc đầu tư dự án truyền tải điện.
Mới đây, UBND Tỉnh Bình Thuận đã có Công văn số 589 /UBND-KT ngày 18/2/2021 đề xuất Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công Thương ưu tiên đưa dự án Thăng long Wind vào Quy hoạch điện VIII nhằm tạo tính đột phá, động lực phát triển trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và kinh tế - xã hội của địa phương, phát huy hiệu quả hệ thống truyền tải 500 kV từ Hàm Thuận Nam - Bình Thuận về Long Thành (Đồng Nai) và Bình Dương.
Các doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, cần thiết nâng tỷ trọng công suất nguồn năng lượng điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi để các doanh nghiệp nước ngoài có thể đầu tư mạnh hơn vào lĩnh vực tiềm năng này.