Dù đã nhìn thấy trước chuyển biến thị trường trong tương lai, nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn chưa đủ sức để hoàn thiện quy trình này. Chính vì vậy, ngành hàng cá tra nói riêng, chế biến xuất khẩu nông sản nói chung đang nỗ lực hoàn thiện các yêu cầu trên con đường xanh hóa chuỗi sản xuất.
Nỗ lực huy động nguồn tài chính để xanh hóa
Nắm bắt thông tin thị trường và nhu cầu thị trường là bước đi đầu tiên để ngành hàng phát triển. Ngành cá tra với quá trình hình thành và phát triển, đến xuất khẩu tỷ USD trải qua gần 30 năm, dần khẳng định vị thế của mình trong hệ thống nông nghiệp Việt Nam và hệ thống phân phối thực phẩm toàn cầu. Trong 30 năm, con cá tra Việt Nam đã có mặt trên khắp 150 thị trường với nhiều thăng trầm nhưng vẫn vững vàng đứng cùng nhiều loại cá thịt trắng khác, nhờ vào nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra Việt Nam.
Theo bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng thư ký Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, xanh hóa toàn bộ chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng hóa nông nghiệp nói chung, thuỷ sản nói riêng; trong đó có con cá tra là yêu cầu của thị trường châu Âu. Tuy nhiên, đây cũng là xu hướng chung toàn cầu trong thời gian tới, khi các quốc gia hướng đến bảo vệ môi trường toàn cầu, giảm phát thải trong các lĩnh vực sản xuất. Xanh hóa quy trình sản xuất và chế biến thuỷ sản nói chung, ngành cá tra nói riêng đã được toàn ngành đề cập đến từ nhiều năm về trước. Tuy nhiên, sự chuẩn bị cho việc xanh hóa còn khá chậm. Những doanh nghiệp có nguồn lực và định hướng thị trường lâu dài thì có sự chuẩn bị cho quá trình tiếp cận thị trường này.
Mặc dù vậy, trong ngành cá tra cũng có rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu nguồn lực để đầu tư vào quy trình xanh hóa toàn chuỗi sản xuất, chế biến. Trước yêu cầu của thị trường châu Âu, trong 10 năm phải hoàn thiện tiến đến giảm phát thải Net Zero, các doanh nghiệp cũng đang nỗ lực huy động nguồn tài chính để tiến hành xanh hóa, thay vì chỉ dùng nguồn lực để trang trải hoạt động nhà máy, chăm sóc đời sống người lao động như hiện nay.
Là một trong 5 doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cá tra lớn nhất, Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn đã có sự chuẩn bị cho xu hướng này cách đây 5 năm. Theo bà Nguyễn Ngô Vi Tâm, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn, tại Hội nghị Biến đổi khí hậu Liên Hợp Quốc (COP 26), Việt Nam đã cam kết giảm phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp với lộ trình đến năm 2030 giảm 30% so với năm 2020 và phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Chương trình hành động chính của Việt Nam bao gồm phát triển nông nghiệp sinh thái, xây dựng hệ thống thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững giai đoạn 2022 - 2030. Trong tương lai, Việt Nam có thể áp dụng phân bổ hạn ngạch phát thải trên đơn vị sản phẩm... Khi những quy định này có hiệu lực thì việc giảm thải của ngành thủy sản sẽ trở thành vấn đề tuân thủ. Riêng Vĩnh Hoàn, kể từ năm 2018 đã xây dựng thành công chương trình “trang trại xanh” với quy trình nuôi trồng, sản xuất cá tra khép kín, kiểm soát từ giống, nuôi trồng, thu hoạch đến chế biến, tiếp thị, bán hàng. Vĩnh Hoàn không bỏ qua những bộ phận trước đây coi là phế phẩm cá tra như da, mỡ, nội tặng, hiện nay các bộ phận này đều được chế biến thành dầu cá tra, đa cá tra chiên giòn, collagen, Gelatin, nông bóng và bao tử cá tra đông lạnh đặc sản.
Những sản phẩm này được người tiêu dùng đón nhận song song với sản phẩm cá tra phi lê đông lạnh chính là chứng minh cho chuỗi sản xuất, chế biến của Vĩnh Hoàn tiến tới xanh hóa hiệu quả. Bên cạnh đó, việc sử dụng năng lượng tái tạo (năng lượng mặt trời) cũng được đưa vào vào nhà máy chế biến để giảm sử dụng nguồn năng lượng nhiệt điện, nguồn nước sau khi xử lý cũng được tái sử dụng cho các hoạt động vệ sinh, chăm sóc cảnh quan nhà máy.
Dự báo xuất khẩu hơn 2 tỷ USD
Dù xanh hoá toàn quy trình là yêu cầu bắt buộc phải làm nhưng mỗi đơn vị, doanh nghiệp đều có nội lực riêng, tiến trình nhanh chậm ở từng đơn vị là điều chắc chắn. Nhưng với sự nỗ lực của toàn hệ thống sản xuất và sự quan tâm của các bộ, ngành là động lực thúc đẩy cho chuỗi xanh này sớm hoàn thiện.
Ngành hàng cá tra được dự báo sẽ hoàn thành thành mục tiêu xuất khẩu hơn 2 tỷ USD trong năm 2024, góp phần đưa xuất khẩu thuỷ sản cán đích 10 tỷ USD như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra hồi đầu năm 2024. Dù diễn biến kinh tế, chính trị của các quốc gia trong năm qua đã có nhiều tác động trở ngại cho sản xuất, xuất khẩu cá tra nói riêng, thuỷ sản nói chung, nhưng ngành hàng cá tra đã có thành tích vượt mong đợi.
Theo ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thuỷ sản, cùng với yêu cầu cấp thiết của các ngành hàng, quy định của các thị trường nhập khẩu, Cục Thuỷ sản đã có chủ trương hướng dẫn các đơn vị sản xuất giống đầu tư công nghệ vào quá trình sản xuất cá tra giống để trong thời gian tới ngành cá tra theo kịp tiến độ thị trường giảm phát thải trong toàn quy trình sản xuất và chế biến. Đây cũng là bước chuẩn bị của ngành cá tra cho năm 2025 sắp tới.
Cục Thuỷ sản cũng hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cá tra bằng ứng dụng vi sinh để xử lý phát thải của cá tra ngay tại chỗ. Với cách ứng dụng công nghệ vào nuôi cá tra để giảm nguồn năng lượng và lượng nước sử dụng cho toàn quy trình, chứng minh được hiệu quả kinh tế trong sản xuất và chế biến cá tra. Với những yêu cầu về nguồn vốn, Chính phủ cũng đã có nhiều chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp thuỷ sản tiếp cận nguồn vốn với lãi suất phù hợp. Riêng Cục Thuỷ sản giới thiệu những dự án nhỏ, những mô hình sáng kiến giảm năng lượng và chi phí sản xuất đến doanh nghiệp để thực hiện sản xuất chế biến xanh trong chuỗi ngành hàng cá tra.
Sang năm 2025, cá tra Việt Nam vẫn là nguồn thực phẩm cung ứng nhu cầu của người tiêu dùng nên vẫn là ngành hàng có quy mô sản xuất và xuất khẩu lớn. Bởi sản lượng cá tra Việt Nam chiếm 42% sản lượng cá tra thế giới. Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chia sẻ, phát triển ngành hàng cá tra vẫn theo định hướng mới là hệ thống giống, cơ sở nhân giống đảm bảo an toàn sinh học. Do đó, các địa phương đầu tàu nuôi cá tra như Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ quy hoạch đất đai để phát triển công nghiệp giống cá tra sinh học, cân bằng dưỡng chất với giá thành thấp nhất để có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.