Những cái khó khi mở lớp học tiếng Việt ở nước ngoài
Khi mới đặt chân lên nước Nga vào tháng 2/2017 nhận nhiệm vụ tại thành phố Ekaterinburg, chúng tôi đã cảm nhận được cái rét tê cóng của mùa Đông tại vùng Ural với nhiệt độ ngoài trời lúc đó luôn vào khoảng -20 đến -25°C. Cảm giác xa nhà, sự thèm muốn được gặp mặt người Việt để nói chuyện và chia sẻ thật là lớn trong chúng tôi.
Thật may mắn, dịp Ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, Hội đồng hương Hải Hưng có mời chúng tôi đến tham dự sự kiện do hội tổ chức. Không khí của buổi lễ thật ấm cúng với khoảng 100 người, trong đó có một số em nhỏ. Nhiều hoạt động văn nghệ, tặng hoa, đọc lời chúc mừng dành cho chị em phụ nữ diễn ra.
Trong các cuộc nói chuyện, chúng tôi tranh thủ hỏi thăm tình hình bà con làm ăn và sinh sống tại địa bàn, hỏi thăm các mẹ trong việc chăm nom, dạy dỗ con cái. Các chị chia sẻ đa phần mọi người đến thành phố này đã nhiều năm nay (có chị đã sống ở đây trên 20 năm), các gia đình có con đến tuổi đi học đều cho đến trường Nga học văn hóa, nhưng hoàn toàn bằng tiếng Nga. Bố mẹ rất mong muốn con em mình biết tiếng Việt, nhưng không biết bằng cách nào. Có nhiều gia đình phải gửi con về học tiếng Việt ở Việt Nam vài năm sau đó mới đưa lại con sang Nga vì không muốn con mất đi tiếng mẹ đẻ.
Chia sẻ với anh Nguyễn Văn Đường - Chủ tịch Hội đồng hương Hải Hưng - và anh Lê Thành Độ - chủ tịch Hội người Việt - tại đây, các anh cũng cho biết bà con người Việt đang sinh sống và làm ăn tại Ekaterinburg hiện nay còn gần 800 người, các cháu đến lứa tuổi đi học cũng vài chục cháu. Nhiều bà con mong muốn có một lớp tiếng Việt từ lâu rồi, nhưng biết việc mở lớp là khó khăn, mất nhiều công sức, và cũng không biết bắt đầu từ đâu, nên ngại và mong muốn đó vẫn chỉ là mơ ước thôi.
Về đến cơ quan nhiều ngày sau đó, chúng tôi vẫn ấn tượng với tình cảm ấm áp, chia sẻ cho nhau của bà con cộng đồng khi xa quê hương, và với mong mỏi bình dị nhưng đáng trân trọng để duy trì tiếng Việt cho con em mình. Chúng tôi bàn với nhau cần phải tìm cách và cùng bà con mở lớp tiếng Việt trên vùng núi Ural này để xóa mù chữ Việt cho con em mình.
Đi vận động cộng đồng chung tay mở lớp tiếng Việt
Sau một thời gian nghiên cứu, nắm vững đặc điểm cộng đồng nơi đây, những thời gian sau đó, chúng tôi tích cực gặp mặt các anh chị, những gia đình có con em độ tuổi đến trường để tìm hiểu khó khăn của bà con. Đa phần các gia đình người Việt đều làm ăn buôn bán ở chợ, bận việc tối ngày, nên việc đưa đón con em đi học là một vấn đề lớn ảnh hưởng đến giờ đi chợ, nhất là vào mùa đông lạnh giá.
Gặp các anh chị trong Ban chấp hành hội đoàn, các anh chị đều cho biết khó khăn lớn nhất là tìm giáo viên. Có anh cho rằng nên mời một giáo viên từ trong nước sang, nhưng lại lo kinh phí cao, khả năng đóng góp của bà con không nhiều được trong tình hình làm ăn khó khăn tại Nga như hiện nay.
Việc tổ chức theo mô hình như thế nào cũng khiến các anh chị trong Ban chấp hành lúng túng vì chưa có kinh nghiệm, rồi việc mở lớp có phải xin phép chính quyền sở tại không, giáo trình lấy ở đâu... Các anh chị đặt ra rất nhiều vấn đề khi mở lớp học tiếng Việt.
Khi xem xét các yếu tố để mở lớp học, chúng tôi nhận thấy quả là nhiểu khó khăn, với lực lượng cơ quan chỉ có ba cán bộ, phải đảm nhận nhiều việc, việc mở và quản lý lớp học là một trở ngại khó vượt qua. Nhớ đến lời dạy của Bác Hồ về công tác dân vận: "Vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm" và "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công", chúng tôi tìm cách vận động cộng đồng cùng mở lớp.
Việc đầu tiên là tìm giáo viên. Chúng tôi nhận định cần phải tìm giáo viên trong cộng đồng, những em giỏi cả tiếng Nga và tiếng Việt vì con em người Việt thạo tiếng Nga hơn tiếng mẹ đẻ. Nếu được như vậy, việc duy trì lớp học sẽ ổn định lâu dài hơn. Chúng tôi tìm đến em Thanh (sinh ra ở Nga), người thạo tiếng Việt (viết chữ rất đẹp, hay giúp bà con cộng đồng trong công việc phiên dịch tiếng Nga). Tuy nhiên, do em bận việc chăm em nhỏ lại vẫn đang học đại học, nên em không bố trí được thời gian. Chúng tôi lại bàn bạc nhiều ngày và tính đến lực lượng sinh viên đang học tại các trường đại học trong vùng. Khi đặt vấn đề, các em sinh viên vui vẻ nhận lời. Chúng tôi lên danh sách và dành nhiều ngày để phỏng vấn trực tiếp và lựa chọn các em đủ tiêu chuẩn. Và cuối cùng, chúng tôi đã lựa chọn được bốn em.
Công việc tiếp theo là xây dựng tổ chức lớp quản lý lớp học. Chúng tôi bàn là phải có một tổ chức của cộng đồng đứng lên để quản lý điều hành lớp học, tốt hơn hết là do chính phụ huynh trực tiếp quản lý. Phía chúng tôi sẽ hỗ trợ, tư vấn trong công tác tổ chức... Sau khi tìm hiểu và cân nhắc hai người có con em mình tham gia lớp học (anh Lê Thanh Hải và chị Lê Thị Hoài), chúng tôi tiếp xúc để động viên, chia sẻ và các anh chị đã vui vẻ nhận lời làm Trưởng và Phó Ban phụ huynh.
Anh Lê Thanh Hải là người rất nhiệt tình với các hoạt động của lớp ngay từ khi mới thành lập. Anh Hải đã sống tại Nga trên 30 năm, anh cho biết: "Tôi nghĩ rằng mình là người Việt Nam thì con cái mình phải biết tiếng Việt, dù nhiều hay ít, để các con nhớ về quê hương, nguồn cội. Vả lại, để các con sau này có về thăm quê còn trò chuyện với ông bà, họ hàng chứ".
Công việc mở lớp cũng thuận lợi hơn khi chúng tôi tiếp tục nhận được sự ủng hộ của cộng đồng. Anh Lê Thành Độ - Chủ tịch Hội người Việt - cho lớp học mượn hai phòng học để tổ chức lớp học.
Tháng 6/2018, lớp tiếng Việt đầu tiên tại thành phố Ekaterinburg đã chính thức khai giảng. Lớp học đã tạo ra bầu không khí mới mẻ và vui tươi cho bà con cũng như cho các em học sinh tại đây. Ngày khai giảng có sự góp mặt của các anh em trong cơ quan, đại diện các hội đoàn, phụ huynh học sinh và các em học sinh. Nhiều tiết mục văn nghệ do các cô giáo (là sinh viên) dàn dựng cùng các em học sinh đã thực sự mang lại không khí ngày hội với tiếng trống trường của ngày khai giảng.
Khóa học được tổ chức làm hai lớp, thu hút gần 30 em học sinh đủ lứa tuổi, lớp 1 cho lứa 6-8 tuổi, lớp 2 dành cho lứa 9-12 tuổi. Đặc biệt, có nữ học sinh lớn tuổi người Nga, là vợ của một công dân Việt Nam cũng tham gia lớp học. Chương trình học theo giáo trình của Ủy ban người Việt Nam ở nước ngoài cung cấp. Lớp học rất sinh động, ngoài giờ học tiếng Việt, các em được tham gia các hoạt động tập thể, như học các trò chơi dân gian, ca múa nhạc. Hàng tháng, các em còn được Ban phụ huynh cùng các cô cho đi xem phim, đi chơi công viên, dã ngoại, qua đó tạo cơ hội thực hành tiếng Việt cho các em.
Em Lê Thị Ngọc Bích, sinh viên trường Đại học Urphu, tham gia giảng dạy tại lớp học đã xúc động viết những dòng tâm sự: "Buổi học đầu tiên của chúng ta diễn ra với rất nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau làm cô vẫn còn nhớ như in cho tới tận bây giờ. Các con bước vào lớp nhìn cô với ánh mắt tròn xoe và lẳng lặng đi về phía chỗ ngồi của mình. Cô thoáng một chút bối rối khi hỏi gì các con cũng không chịu nói, thậm chí có bạn còn khóc nấc lên đòi về với mẹ vì có lẽ các con còn lạ lẫm với mọi thứ xung quanh. Rồi dăm ba phút sau đó, khi nỗi sợ sệt kia được xua đi bằng những cái ôm và lời dỗ dành ngọt ngào của các cô thì các con bỗng trở nên vui tươi hẳn lên. Cô cũng vui sướng biết bao khi các con rất ngoan, chăm chú lắng nghe từng lời cô nói. Mặc dù cô biết có rất nhiều bạn không hiểu hết được những gì cô đang nói nhưng qua những ánh mắt thích thú của các con nhìn cô khi cô kể truyện cổ tích Việt Nam cho các con nghe, rồi các con tự xung phong kể lại cho cả lớp khiến cô xúc động vô cùng. Vậy là buổi học đầu tiên của chúng mình diễn ra rộn ràng vui vẻ như thế..."
Rồi mùa Đông 2018 đến, với cái giá rét vùng Ural xuống đến -25°C, các sinh hoạt của người dân tập trung vào phía trong các tòa nhà. Do bận vụ mùa làm ăn, nhiều phụ huynh ngại đưa con đến lớp học, lớp học thưa dần, có lúc chỉ còn 5-6 em, lớp học có nguy cơ bị dừng lại.
Khi đó, trong tâm trạng buồn, bạn Bích - giáo viên của lớp học - chia sẻ: "Cô không biết là các con dành thời gian để học những môn khác hay là các con đang chán học tiếng Việt, chán dần cách dạy của các cô. Cô rất buồn, thực sự rất buồn mỗi khi lên lớp chỉ lác đác vài bạn đi học. Nhưng đâu đó trong cô vẫn đong đầy một niềm vui nho nhỏ là các bạn còn lại đã tiến bộ lên thấy rõ. Bây giờ các con có thể tự đánh vần, tự đọc những câu hội thoại dài và biết nhiều từ ngữ Việt Nam hơn".
Trước tình hình trên, chúng tôi lại tìm cách tháo gỡ, gặp mặt các hội, đoàn, Ban phụ huynh để tìm phương án duy trì lớp. Anh Lê Thanh Hải - Trưởng ban phụ huynh - là người rất tích cực, cùng với các em giáo viên đi vận động phụ huynh để cho con em đến lớp. Chúng tôi bàn với anh, nếu cần thì sẽ tổ chức xe đưa đón các em đến lớp để hỗ trợ cho phụ huynh, không ảnh hưởng đến công việc của họ, chi phí anh em trong cơ quan sẽ đóng góp một phần.
Rồi điều mong muốn chung của chúng tôi và cộng đồng đã đến. Lớp học lại đông dần lên, duy trì đều đặn. Ý thức của phụ huynh cũng đã tốt hơn nhiều. Các hoạt động của lớp diễn ra thường xuyên, Ban phụ huynh cùng các em giáo viên tổ chức ngày càng chuyên nghiệp hơn.
Chúng tôi, với niềm vui nho nhỏ, cũng giống như những tình cảm được chia sẻ của bạn Lê Thị Ngọc Bích: "Cô có một niềm tin mãnh liệt ở các con. Nếu các con cứ ngoan ngoãn, chăm chỉ đi học đều đặn hơn nữa thì cô tin vào một ngày không xa các con sẽ có thể tự đọc trôi chảy tiếng Việt, tự tin hát những bài hát Việt Nam cho ông bà bố mẹ nghe, và thậm chí có thể viết cho các cô những dòng thư nho nhỏ như chính cô đang viết, gửi gắm những lời tâm sự của cô đến các con bây giờ".
Quả thực, có đi ra bên ngoài chúng tôi mới thấy sự ham muốn học của người Việt, tình cảm với quê hương. Bà con xa xứ chăm chỉ làm ăn, dù bận tối ngày, những vẫn luôn dạy con em mình về truyền thống, nếp ăn, nếp ở của người Việt, mong con em mình được học tiếng Việt để không quên cội nguồn. Đấy là việc thuận đầu tiên để làm cơ sở cho các lớp học tiếng Việt có thể phát triển ở nước ngoài. Tuy nhiên, có nhiều cái khó đã cản trở cho việc mở cũng như phát triển các lớp tiếng Việt.
Thứ nhất là về vai trò của hội, đoàn. Ở đâu có bà con người Việt, muốn mở lớp học tiếng Việt cần có hội đoàn tại địa phương đứng ra bảo trợ cho lớp học. Hội, đoàn phải đoàn kết, quan tâm đến việc giảng dạy và học tiếng Việt cho con em cộng đồng và biến công việc đó thành nhiệm vụ hoạt động thường xuyên của mình. Kinh nghiệm cho thấy, ở những nơi có rất đông người Việt Nam mà hội, đoàn không đoàn kết, hoặc hội, đoàn lại phân tán thì cũng khó được mở được lớp tiếng Việt dù nhu cầu của cộng đồng và con em bà con luôn lớn. Vậy việc vận động các hội, đoàn cùng chung tay, chia sẻ trong việc mở cũng như duy trì lớp tiếng Việt rất quan trọng.
Thứ hai, vệc quản lý lớp học phải do chính cộng đồng phụ trách. Cái khó ở đây là hội, đoàn bảo trợ cho lớp học mà không trực tiếp quản lý lớp học, xem ra giảm vai trò của các hội, đoàn. Việc quản lý lớp học đòi hỏi chi tiết và thường xuyên, trong khi đa phần các chủ tịch, hay ban chấp hành hội, đoàn thường là các chủ doanh nghiệp rất bận việc. Do vậy, việc quản lý lớp phải do phụ huynh có con em mình tham gia lớp học để trực tiếp quản lý. Vậy cần vận động và tìm ra những nhân tố tích cực đó để đứng ra chịu trách nhiệm.
Cuối cùng là vai trò của cơ quan và cán bộ làm công tác cộng đồng. Ở những địa bàn chưa có lớp tiếng Việt thì vai trò của CQĐD trong việc mở lớp là yếu tố quan trọng. Việc tham gia trực tiếp, cũng như đào tạo hướng dẫn cộng đồng làm quen với công tác tổ chức là nhân tố thúc đẩy phát triển lớp lúc ban đầu.