Về vấn đề này, báo Tin tức xin thông tin như sau:
Phụ thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm của hành vi sử dụng sổ đỏ giả để thực hiện thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai mà sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tại Khoản 3 Điều 35 Nghị định 91/2019/NĐ-CP quy định:
“Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với trường hợp sử dụng giấy tờ giả trong thực hiện thủ tục hành chính và các công việc khác liên quan đến đất đai mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự".
Chiếu theo quy định trên, nếu hành vi sử dụng giấy chứng nhận giả để chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt tối đa là 30 triệu đồng.
Bên cạnh phạt tiền thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tịch thu giấy tờ giả đã sử dụng để thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất (theo Khoản 4 Điều 35 Nghị định 91/2019/NĐ-CP).
Biện pháp khắc phục hậu quả: Theo Điểm b Khoản 5 Điều 35 Nghị định 91/2019/NĐ-CP, trường hợp cơ quan đăng ký đất đai đã đăng ký biến động vào sổ địa chính mà phát hiện giấy tờ trong hồ sơ đăng ký biến động (hồ sơ đăng ký sang tên là giả) thì hủy bỏ kết quả thủ tục đăng ký biến động khi chuyển nhượng.
Ngoài việc quy định mức phạt đối với hành vi sử dụng giấy tờ giả thì Nghị định 91/2019/NĐ-CP còn quy định mức xử phạt đối với trường hợp khai báo không trung thực, tẩy xóa, sửa chữa giấy tờ nhà đất, cụ thể:
- Phạt tiền từ 4 - 10 triệu đồng đối với trường hợp khai báo không trung thực việc sử dụng đất hoặc tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận và việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất bị sai lệch mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Phạt tiền từ 1 - 3 triệu đồng đối với trường hợp tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất mà không thuộc các trường hợp trên.
Như vậy, người dùng sổ đỏ giả để mua bán nhà đất bị xử phạt vi phạm hành chính lên tới 30 triệu đồng nếu bị phát hiện và còn thời hiệu. Nếu thỏa mãn các yếu tố cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù với khung hình phạt cao nhất là chung thân theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.