Nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ảnh: Wikipedia |
Nỗi đau tận cùng và tình thơ mạnh mẽ đã tạo nên một Hàn Mạc Tử trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Đúng như nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét, đó là “một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng”.
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/9/1912 tại ngôi làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Hàn Mặc Tử là người tiêu biểu cho giới thanh niên trí thức lúc bấy giờ sống hết mình, cháy hết mình với những gì mình yêu. Với Hàn Mặc Tử đó là thơ, là trăng, là một người con gái cụ thể theo từng giai đoạn. Hàn Mặc Tử đã dâng hiến đời sống chân thành, thảm khốc, ngắn ngủi của mình cho thi ca, đã để “hồn trào ra đầu ngọn bút, mỗi lời thơ đều dính não cân ta”.
Ông đã làm thơ bằng cuộc sống thực, đau đớn, bi thương, bệnh hoạn, khốn cùng. Mỗi lời thơ, mỗi câu từ của ông đều là máu, là xương thịt được xắt ra.
Thơ của ông thấm đẫm chất trữ tình chủ đạo của thời đại thi ca đó, nhưng vẻ trữ tình của ông mang nét khác hẳn. Nó không lao thẳng vào cảm xúc người đọc một cách thuần khiết như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, cũng không chỉ mang màu sắc lãng mạn như Xuân Diệu, Huy Cận, Đinh Hùng, Bích Khê…
Nó là sự hòa quyện tài tình của tượng trưng và siêu thực. Vì thế mà thơ Hàn Mặc Tử không “truyền cảm” mà “gợi cảm” sâu xa để người đọc tha hồ suy tưởng rồi run lên vì hay quá, điên quá, táo bạo quá!
Chất trữ tình trong thơ ông ban đầu là chất trữ tình cổ điển, với lối so sánh ước lệ và cách gieo vần theo thể Đường luật. Điều đó được thể hiện rõ trong tập “Lệ Thanh thi tập”:
“Khóc giùm nhân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh, dế tạo đàn” (Đêm không ngủ)
Tuy nhiên, ngay trong những bài thơ Đường luật ấy, mầm mống của sự cách tân khác biệt đã bắt đầu lộ rõ trong 3 bài thơ “Chùa hoang”, “Gái ở chùa” và “Thức khuya” đăng trên Thực nghiệp Dân báo, được cụ Phan Bội Châu chủ nhân Thi xã Mộng Du họa thơ và đề cao. Đó là những câu thơ tiên phong trong cách tân chữ nghĩa và cách mạng trong tư tưởng:
“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối
Gió Thu lọt cửa cọ mài chăn” (Thức khuya)
Cũng vẫn là thơ trung đại đấy, nhưng nội dung thơ đã chẳng còn ngâm vịnh gió trăng hay bàn đến hào khí anh hùng, mà bao trùm lên đó là nhục cảm và thân xác, điều gần như cấm kỵ thời bấy giờ lại là hai yếu tố chính trong thơ Hàn Mặc Tử.
Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, có khi người ta cảm thấy bứt rứt kinh khủng bởi lối nói đậm vẻ phương Đông vừa lộ liễu vừa kín đáo. Thơ ông không áp đặt người đọc phải cảm nhận những gì ông cảm nhận, những con chữ chỉ đóng vai trò đòn bẩy, là phương tiện mở ra những liên tưởng độc đáo, làm bật lên cảm xúc riêng biệt trong mỗi người, từ đó mà người đọc đón nhận những mỹ cảm một cách tròn đầy hơn, đã đời hơn mà reo lên thích thú:
“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi” (Bẽn Lẽn)
Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ của Hàn Mặc Tử, có những người để lại dấu ấn đậm nét, cũng có những người chỉ là cơn gió thoảng qua, nhưng tất cả đều là những nguồn thơ bất tận, được thi sĩ gửi vào những vần thơ tuyệt tác:
“Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ” (Những giọt lệ).
Nói như nhà thơ Thanh Thảo, nếu những bậc rong chơi, hời hợt trong thi ca vẫn gọi cái hành trình làm thơ của mình là “một cuộc chơi” thì với Hàn Mặc Tử, “cuộc chơi” ấy là cuộc chơi vãi máu, mửa máu:
“Ta nằm trong vùng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra” (Say trăng).
Rồi cho đến “Thơ điên”, nếu nói điên là một bệnh lý thì cái theo suốt cuộc đời Hàn Mặc Tử làm ra thơ Hàn Mặc Tử đã “điên toàn triệt”, điên từ đầu chí cuối. Còn nếu người ta gọi những dòng thơ bất thường viết ra trong trạng thái không bình thường của ông là những dòng thơ của sự tỉnh ngộ, thì Hàn Mặc Tử “tỉnh toàn triệt”. Thơ Hàn Mặc Tử tỉnh táo đến tận cùng mà ai cũng biết, đi tới tận cùng tỉnh táo người ta sẽ gặp “điên loạn”.
Còn nhiều điều lạ lùng trong thơ của Hàn Mặc Tử không thể nào nói hết. Gần đây, nhiều người phát hiện ra nhiều bài thơ của Hàn đọc xuôi, đọc ngược vẫn là thơ; bỏ bớt từ trước, từ sau rồi đọc xuôi, đọc ngược thì vẫn cứ là bài thơ với đầy đủ ý tứ. Rồi có cả những nhà ngôn ngữ đã đưa ra những lý luận ngôn ngữ khác biệt trong thơ ông…
Nói như nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu, “dãy tín hiệu nhấp nháy liên hồi trong “Gái Quê” và một phần của “Đau thương” hiện lên với một gam màu nóng, cảm giác mạnh và dường như chỉ xoáy vào hai điểm nhấn nhạy cảm và gợi tình nhất của của phái đẹp như những nhãn tự trong thơ. Tôi như chợt thấy thơ Hàn Mặc Tử vẽ ra như tranh của Van Gogh. Những người có cuộc đời đớn đau và điên loạn cũng có những suy nghĩ từa tựa nhau”.
Giã từ cõi nhân gian vừa lúc 28 tuổi xuân xanh bởi sự nghiệt ngã của tật bệnh, Hàn Mặc Tử đã ra đi trong đau đớn không phải của thể chất mà ở tâm hồn.
Trải qua bao thử thách của thời gian, thơ Hàn Mặc Tử vẫn hấp dẫn hậu thế với những tầm đón đợi và tiếp nhận đa chiều. Di sản thi ca của ông đã nhập vào kho tàng văn chương nước nhà, và mỗi khi lật giở lại những dòng thơ của thi nhân, người đọc vẫn tìm thấy một niềm đồng cảm thiêng liêng và vẫn không kìm nén được những xót xa kinh ngạc cùng những rung động lạ thường…