Sau 20 ngày xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã khép lại phiên tòa xét xử Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm bị Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truy tố về 4 tội danh: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, Trốn thuế và Kinh doanh trái phép.
Bị cáo Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm đứng trước vành móng ngựa nghe tòa tuyên án. Ảnh: Doãn Tấn – TTXVN |
Trong bản án, HĐXX cho rằng có đầy đủ căn cứ kết luận các tội danh truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Với 4 tội danh nêu trên, Nguyễn Đức Kiên bị phạt tổng cộng 30 năm tù giam, cùng hình phạt bổ sung 75 tỷ đồng về hành vi trốn thuế, 100 triệu đồng cho hành vi lừa đảo, đồng thời còn cấm Kiên tham gia hoạt động ngân hàng trong 5 năm sau khi ra tù.
HĐXX nhận định, trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Đức Kiên giữ vai trò quan trọng, chủ mưu, không thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên cần phải áp dụng mức án nghiêm khắc. Đối với các tội danh truy tố, mặc dù các bị cáo và các luật sư bào chữa đã đưa ra một số luận điểm phản bác, nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ, lời khai của các bị cáo, các nguyên đơn, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người giám định… Tòa xác định có đủ cơ sở cấu thành tội danh như đã truy tố đối với các bị cáo.
Đối với hành vi kinh doanh trái phép, Nguyễn Đức Kiên đã thông qua 6 công ty để kinh doanh cổ phần, cổ phiếu, kinh doanh vàng với số tiền gần 21.500 tỷ đồng. Bị cáo thừa nhận dùng số tiền để thực hiện hoạt động kinh doanh nêu trong cáo trạng, nhưng không thừa nhận việc kinh doanh của mình trái pháp luật.
Các công ty này không có giấy chứng nhận kinh doanh cổ phần, cổ phiếu, thực tế không có hoạt động kinh doanh gì khác ngoài lĩnh vực này. Điều đó cho thấy, mục đích lập các công ty trên của Kiên (trừ Công ty Thiên Nam) chủ yếu chỉ là nhằm mục đích kinh doanh cổ phần, cổ phiếu. Hành vi kinh doanh của bị cáo Kiên núp dưới hình thức mua cổ phần, cổ phiếu, thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu tội Kinh doanh trái phép.
Việc kinh doanh giá vàng như bị cáo Kiên xác nhận là hoạt động kinh doanh vàng cần đăng ký kinh doanh theo quy định của Pháp luật. Quan điểm của bị cáo và các luật sư cho rằng không kinh doanh vàng mà chỉ kinh doanh giá vàng. Phiếu lệnh ủy thác đều có chữ ký của ông Lê Quang Trung (Tổng Giám đốc Công ty Thiên Nam). Kiên chỉ nhận trách nhiệm là giúp ông Lê Quang Trung đưa lệnh này đến Ngân hàng ACB. Các văn bản pháp lý để Công ty Thiên Nam đầu tư vàng không trái pháp luật vì giấy phép của Công ty Thiên Nam là có mua bán hàng hóa, trong đó có vàng.
Về hoạt động kinh doanh vàng, HĐXX cho rằng Công ty Thiên Nam không đăng ký kinh doanh "mặt hàng" này. Ngoài kinh doanh giá vàng qua tài khoản nước ngoài, Thiên Nam còn kinh doanh vàng trong nước với ngân hàng ACB. Tại tòa, đại diện Ngân hàng Nhà nước cho rằng việc kinh doanh vàng phải chịu sự quy định của nhà nước. Kinh doanh vàng nói chung đều phải đăng ký. Theo biên bản thỏa thuận của HĐQT, Công ty Thiên Nam đã ủy quyền cho Kiên đặt lệnh trên hệ thống ghi âm của ngân hàng ACB. Điều đó cho thấy, việc thực hiện ký các lệnh của giám đốc Thiên Nam Lê Quang Trung chỉ là hình thức, Kiên mới là người quyết định. Vì vậy, việc bị cáo Kiên cho rằng ông Trung phải chịu trách nhiệm là không có căn cứ. Tòa xác định có đủ cơ sở kết luận hành vi kinh doanh vàng trên tài khoản của bị cáo Kiên là kinh doanh trái phép.
Đối với hành vi trốn thuế, Công ty B&B do Nguyễn Đức Kiên làm chủ tịch đã ký hợp đồng hợp tác đầu tư tài chính với ACB thực hiện giao dịch tài chính để kinh doanh giá vàng ngoài lãnh thổ Việt Nam. Hợp đồng ủy thác kinh doanh giữa bà Hương (em gái Kiên) với Công ty B&B là không có cơ sở vì Công ty này không đăng ký kinh doanh mua bán vàng, nên bị xác định là không hợp pháp, chỉ là hợp đồng khống nhằm chuyển hết lợi nhuận khỏi B&B. Theo đó, bản chất của hoạt động kinh doanh này là giữa Công ty B&B thông qua Ngân hàng ACB. Cho nên Công ty B&B phải có nhiệm vụ kê khai thuế. Trong năm 2009-2010, B&B kinh doanh có lãi, trong đó có cả kinh doanh vàng trạng thái có lãi nhưng không kê khai. Kết luận của Bộ Tài chính cho thấy, thuế thu nhập phát sinh mà B&B phải nộp là hơn 25 tỷ đồng. Từ sự phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Kiên đã trốn thuế 25 tỷ đồng theo đúng truy tố của VKSND Tối cao. Vì vậy, đủ căn cứ để kế luận Kiên đã phạm tội Trốn thuế.
Việc bị cáo Kiên và vợ Kiên khai chi cục thuế Đống Đa vẫn kiểm tra hàng năm mà không phát hiện sai sót gì, HĐXX thấy theo quy định về việc kiểm tra tính thuế thì cơ quan kiểm tra dựa trên việc doanh nghiệp tự kê khai đầy đủ, nên cơ quan thuế Đống Đa đã làm đúng quy tắc.
Về hành vi lừa đảo của Kiên, Tòa nhận thấy, theo tài liệu và lời khai của ông Trần Đình Long (Chủ tịch tập đoàn Hòa Phát) và Trần Tuấn Dương (Tổng giám đốc Thép Hòa Phát), hai người này khi tham gia đàm phán với Kiên đã không biết 20 triệu cổ phần của Thép Hòa Phát mua của ACBI đang được thế chấp tại ACB.
Bị cáo Kiên khai không có ý thức lừa đảo chiếm đoạt số tiền 246 tỷ đồng bán cổ phiếu trên cho phía Hòa Phát. Thực tế bị cáo hoán đổi cổ phần khác cho ACB. Qua các lời khai, tài liệu, tòa xác định, Công ty TNHH một thành viên Thép Hoà Phát đã chuyển 264 tỷ đồng cho ACBI. Trong khi đó, khi nhận tiền, bị cáo Kiên không có bất cứ hành vi nào về việc đề nghị giải chấp số cổ phần này. Điều đó cho thấy ý thức chiếm đoạt của bị cáo Kiên.
Với hành vi Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, HĐXX thấy rằng, khi Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 chưa có hiệu lực, không có quy định nào cho phép Ngân hàng thương mại ủy thác tiền gửi cho các nhân viên đi gửi ở các tổ chức tín dụng khác. Căn cứ vào biên bản làm việc giữa thanh tra Ngân hàng nhà nước và ACB, xác định việc HĐQT ACB ra nghị quyết đồng ý ủy thác cho nhân viên gửi tiền là "hoàn toàn sai". Các thành viên của thường trực HĐQT biết việc ủy thác phải có hướng dẫn nhưng vẫn thực hiện chủ trương ủy thác tiền gửi nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Dù Vietinbank hay Huyền Như phải chịu trách nhiệm số tiền trên thì ACB vẫn chưa thu hồi được. Hành vi của các bị cáo đã dẫn đến hậu quả mất 718 tỷ đồng nên HĐXX nhận thấy các bị cáo Kiên, Quang, Kỳ, Hải, Cang, Tuấn… có đủ dấu hiệu phạm tội Cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với hành vi đầu tư cổ phiếu của Ngân hàng ACB, theo HĐXX bản chất vụ việc là với hình thức hợp đồng đầu tư, Công ty Chứng khoán thuộc Ngân hàng ACB (ACBS) thông qua Công ty ACI và Công ty ACI-HN do Nguyễn Đức Kiên là Chủ tịch HĐQT đã thực hiện mua cổ phiếu của ngân hàng ACB. Và tiền của ACB lại trở về với ACB. Liên quan hành vi này còn có sự tiếp tay của một số ngân hàng khác.
HĐXX nhận định, việc HĐQT ACB ủy quyền cho Nguyễn Đức Kiên thực hiện đầu tư cổ phiếu là trái với quy định của Bộ Tài Chính. Hành vi này đã gây thiệt hại cho Ngân hâng ACB số tiền 678 tỷ đồng. Do đó, việc truy tố các bị cáo về tội cố ý làm trái là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Vụ án tạm thời khép lại với những mức án nghiêm khắc cho các bị cáo, là những “giá đắt” mà các bị cáo phải trả cho hành vi phạm tội nghiêm trọng của mình. Đồng thời, đây cũng là những bài học kinh nghiệm nói chung, là lời cảnh báo, răn đe, phòng ngừa chung cho các hoạt động kinh doanh cố tình bất chấp các quy định pháp luật để thực hiện hành vi vi phạm, nhằm chiếm đoạt, thu lời bất chính.
P.V