Theo đó, đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt các mức án đối với các bị cáo: Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường từ 7-8 năm tù, Nguyễn Việt Hùng (sinh năm 1956, nguyên Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược Bộ Y tế) từ 3-4 năm tù, Lê Đình Thanh (sinh năm 1982, nguyên công chức Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh) từ 2-3 năm tù về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 285, khoản 2 – Bộ luật Hình sự năm 1999.
Hai bị cáo: Phạm Hồng Châu (sinh năm 1957, nguyên Trưởng phòng Đăng ký thuốc, Cục Quản lý Dược Bộ Y tế) bị đề nghị từ 7-8 năm tù, Nguyễn Thị Thu Thủy (sinh năm 1976, nguyên Phó Trưởng phòng Quản lý giá thuốc, Cục Quản lý Dược Bộ Y tế) từ 4-5 năm tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 281, khoản 2 – Bộ luật Hình sự năm 1999.
9 bị cáo: Nguyễn Minh Hùng (sinh năm 1978, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng Giám đốc Công ty VN Pharma) bị đề nghị 20 năm tù, tổng hợp với bản án 17 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 30 năm tù; Võ Mạnh Cường (sinh năm 1978, nguyên Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại Hàng hải Quốc tế H&C) bị đề nghị 20 năm tù, tổng hợp với bản án 20 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 30 năm tù; Nguyễn Trí Nhật (sinh năm 1975, nguyên Phó Tổng Giám đốc Công ty VN Pharma) bị đề nghị từ 15-16 năm tù, tổng hợp với bản án 12 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là từ 27-28 năm tù; Ngô Anh Quốc (sinh năm 1984, nguyên Phó Tổng Giám đốc Công ty VN Pharma) bị đề nghị từ 14-15 năm tù, tổng hợp với bản án 16 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 30 năm tù; Phan Cẩm Loan (sinh năm 1973, nguyên Phó Trưởng phòng Xuất nhập khẩu Công ty VN Pharma) bị đề nghị từ 11-12 năm tù, tổng hợp với bản án 7 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là từ 18-19 năm tù; Lê Thị Vũ Phương (sinh năm 1982, nguyên Kế toán Trưởng Công ty VN Pharma) bị đề nghị từ 10-11 năm tù, tổng hợp với bản án 5 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là từ 15-16 năm tù; Phạm Anh Kiệt (sinh năm 1963, nguyên Tổng Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Dược Sài Gòn) bị đề nghị từ 11-12 năm tù, tổng hợp với bản án 3 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là từ 14-15 năm tù; Phạm Quỳnh Trang (sinh năm 1980, nguyên nhân viên Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại hàng hải Quốc tế H&C) bị đề nghị từ 9-10 năm tù, tổng hợp với bản án 4 năm tù của bản án trước, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là từ 13-14 năm tù; Nguyễn Thị Quyết (sinh năm 1983, nguyên nhân viên Phòng Xuất nhập khẩu Công ty VN Pharma) bị đề nghị từ 8-9 năm tù về cùng tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh” theo quy định tại Điều 157, khoản 4 – Bộ luật Hình sự năm 1999.
Ngoài hình phạt tù, đại diện Viện Kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung, cấm các bị cáo trong vụ án đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc liên quan đến lĩnh vực dược phẩm, y tế trong thời hạn từ 3 năm đến 5 năm; cấm bị cáo Lê Đình Thanh làm công việc nhất định liên quan đến ngành Hải quan từ 3 năm đến 5 năm.
Lợi dụng sơ hở để buôn bán thuốc giả
Bản luận tội nêu rõ, đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, có liên quan đến nhiều cơ quan, ban ngành của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, nhiều công ty kinh doanh dược phẩm trong và ngoài nước… và được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Vụ án được đưa ra xét xử thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc kiên quyết xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Hành vi của các bị cáo đã để lại hậu quả hết sức nặng nề về mặt chính trị, kinh tế, cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Đại diện Viện Kiểm sát nhận định, lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý, kinh doanh dược phẩm; sự thiếu trách nhiệm hoặc có động cơ cá nhân của một số cán bộ Cục Quản lý Dược trong việc thẩm định, cấp phép, kiểm tra, kiểm soát hoạt động đối với các công ty sản xuất thuốc nước ngoài và các công ty nhập khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc tại Việt Nam; sự thiếu trách nhiệm của công chức Hải quan khi được phân công thực hiện kiểm tra, kiểm soát việc nhập khẩu, thông quan, nên trong năm 2008 – 2010, Nguyễn Lê Xuân Khanh đã bàn bạc, thống nhất với Nguyễn Minh Hùng và Lê Văn Sơn lập hồ sơ các thuốc mang nhãn mác Health 2000 Canada của Công ty Cudupha, Công ty Vimedimex đứng tên xin cấp số đăng ký.
Thực tế các hồ sơ thuốc đều giả nhưng do một số cán bộ của Cục quản lý Dược thiếu trách nhiệm và có động cơ cá nhân đã làm trái công vụ trong quá trình thẩm định, xét duyệt nên 07 loại thuốc Extrafovir; Kaderox-250; Kafotax-1000; MGP Axinex-1000, MGP Mosinase-625, H2K Levofloxacin và H2K Ciprofloxacin mang nhãn mác Health 2000 Canada đã được cấp số đăng ký. Sau khi các thuốc trên đã được cấp số đăng ký, bị cáo Nguyễn Minh Hùng đã cấu kết với Nguyễn Lê Xuân Khang, Võ Mạnh Cường cùng các nhân viên Công ty VN Pharma, Công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại hàng hải Quốc tế H&C và một số đối tượng khác thực hiện các thủ đoạn để buôn bán, nhập khẩu, thông quan một số lượng lớn thuốc giả nguồn gốc, xuất xứ vào Việt Nam để tiêu thụ trong nước, gây thiệt hại về kinh tế và sức khỏe cho người bệnh.
Tạo điều kiện cho thuốc giả nhập khẩu và tiêu thụ tại Việt Nam
Trong vụ án này, Viện Kiểm sát xác định, bị cáo Trương Quốc Cường, với vai trò là Cục trưởng Cục Quản lý Dược, Phó Chủ tịch thường trực, được Chủ tịch ủy quyền điều hành Hội đồng xét duyệt thuốc đã thực hiện không đúng, không đầy đủ trách nhiệm được giao, thiếu giám sát, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của nhóm chuyên gia thẩm định và bộ phận thường trực đăng ký thuốc, đồng ý xét duyệt cấp số đăng ký thuốc trong khi hồ sơ không đủ điều kiện cấp dẫn đến hậu quả 06/07 loại thuốc giả nhãn mác Health 2000 được nhập khẩu và tiêu thụ tại Việt Nam, với trị giá hơn 148 tỷ đồng; mặc dù nhận được nhiều thông tin về thuốc Health 2000 Canada là không rõ nguồn gốc, xuất xứ nhưng không chỉ đạo đình chỉ lưu hành, thu hồi, tiêu hủy thuốc dẫn đến hậu quả các cơ sở y tế trong nước tiếp tục sử dụng các loại thuốc giả nhãn mác Health 2000 Canada, không rõ nguồn gốc xuất xứ để điều trị cho người bệnh, tổng trị giá hơn 3,7 tỷ đồng.
Bị cáo Phạm Hồng Châu là người tham gia soạn thảo Công văn số 5249/QLD-ĐK ngày 25/5/2009, biết rõ các quy định của pháp luật về hợp pháp hóa Lãnh sự, các quy định khác tại Công văn 5249 đối với tài liệu pháp lý trong hồ sơ thuốc nhưng đã cố ý kết luận biên bản cho bổ sung hồ sơ, sau đó đề nghị cấp số đăng ký cho 5 thuốc: Extrafovir; Kaderox-250; Kafotax-1000; MGP Axinex-1000, MGP Mosinase-625 trong khi hồ sơ không đủ điều kiện cấp theo quy định của pháp luật. Bị cáo Châu cũng tạo điều kiện cho Công ty Vimedimex sớm được cấp số đăng ký cho 2 thuốc H2K Levofloxacin và H2K Ciprofloxacin, chỉ đạo đưa hồ sơ ra thẩm định sớm, kết luận biên bản cho bổ sung hồ sơ sau đó đề nghị cấp số đăng ký cho 2 thuốc trên trái quy định của pháp luật. Các sai phạm nêu trên của bị cáo Phạm Hồng Châu dẫn đến hậu quả 6/7 loại thuốc giả nhãn mác Health 2000 được nhập khẩu, lưu hành tại Việt Nam, với tổng trị giá hơn 148 tỷ đồng.
Đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu Thủy, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng bị cáo Thủy đã cố ý không chấp hành đúng các quy định của pháp luật và Bộ Y tế, tự ý thẩm định lại dựa trên các tài liệu được đưa trái quy định vào hồ sơ nhằm khắc phục các lỗi đã được nhóm chuyên gia đánh giá, đề nghị không cấp số đăng ký, trong khi hồ sơ 2 thuốc H2K Levofloxacin và H2K Ciprofloxacin đã có FSC, GMP bản chính nhằm tạo điều kiện cho các thuốc này được cấp số đăng ký. Sau đó, Nguyễn Thị Thu Thủy đã thẩm định bổ sung đề nghị cấp số đăng ký cho 2 thuốc trong khi hồ sơ không đủ điều kiện cấp dẫn đến hậu quả các thuốc trên được cấp số đăng ký, nhập khẩu, lưu hành tại Việt Nam, với tổng trị giá hơn 101 tỷ đồng.
Sau khi đại diện Viện Kiểm sát trình bày bản luận tội, các bị cáo, các luật sư bào chữa đã tham gia tranh luận, đưa ra những quan điểm, luận cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị cáo.