Tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để xử lý nợ chuyên nghiệp

Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng: Việt Nam cần nhanh chóng đồng bộ hệ thống luật và các văn bản dưới luật, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh để hướng tới việc xử lý nợ chuyên nghiệp, góp phần nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Chú thích ảnh
Hoàn thiện pháp lý về nợ xấu sau khi Nghị quyết 42 kết thúc thí điểm. Ảnh: CTV

Quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng thực sự tạo nên bước đột phá kể từ khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu kéo dài trong 5 năm, kể từ tháng 8/2017 đến tháng 8/2022. Theo đó, với quyền năng pháp lý được mở rộng hơn so với so với các quy định hiện hành về xử lý nợ xấu, Nghị quyết 42 đã giúp hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) xử lý được khối lượng nợ xấu rất lớn.

Đánh giá sự hiệu quả về đánh tan "cục máu đông" nợ xấu từ Nghị quyết 42 mang lại, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội khóa XV khẳng định: Tổng số nợ được xử lý đóng góp rất lớn trong sự đảm bảo an toàn với hệ thống ngân hàng; đồng thời, siết chặt kỷ luật thị trường, nâng cao ý thức của bên vay nợ.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến 31/12/2021, toàn hệ thống TCTD xử lý được 0,2 nghìn tỷ đồng, bằng 47,9% số nợ xấu theo Nghị quyết 42 tại thời điểm 15/8/2017 và số nợ xấu theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết số 42 có hiệu lực.

Trong 0,2 nghìn tỷ đồng nợ xấu đã xử lý: Xử lý nợ xấu nội bảng là 196,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 51,79%); xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán là 100,8 nghìn tỷ đồng (chiếm 26,51%); xử lý các khoản nợ đã bán cho Công ty quản lý tài sản (VAMC) được thanh toán bằng trái phiếu đặc biệt là 82,5 nghìn tỷ đồng (chiếm 21,70%).

Mặc dù Nghị quyết 42 giúp đạt được những kết quả khả quan nhưng nhiều khó khăn, vướng mắc vẫn còn, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý nợ xấu của các TCTD. Đặc biệt, những yếu tố rủi ro, bất định như: COVID-19 còn khó lường; địa chính trị phức tạp (nhất là chiến sự Nga - Ukraina); Trung Quốc tăng trưởng chậm lại; giá cả, lạm phát tăng; tăng lãi suất; rủi ro tài chính, an ninh năng lượng tăng; lợi nhuận biên của doanh nghiệp còn bị thu hẹp…là các yếu tố chính tác động đến nợ xấu tại Việt Nam năm 2022 và các năm tiếp theo.

Do vậy, việc đồng bộ hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến xử lý nợ xấu sẽ là tiền đề quan trọng để xây dựng hành lang pháp lý cần thiết, hình thành một môi trường kinh tế lành mạnh, hoạt động cấp tín dụng và xử lý nợ chuyên nghiệp, bài bản cho Việt Nam, góp phần nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam

TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia dự báo: Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2022 - 2023 có thể đạt 2,9 - 3,2% (từ mức 6,1% năm 2021); lạm phát tăng mạnh (lên đến 6 - 6,2% từ 3,8% năm 2021); sau đó dịu dần khoảng 4% năm 2023 và 3% sau đó. Cùng với đó là những khó khăn, bất định do dịch bệnh và căng thẳng địa chính trị.

“Tại Việt Nam, theo tính toán của Viện Đào tại Nghiên cứu BIDV, có 3 kịch bản tăng trưởng cho năm 2022. Ở kịch bản tích cực, tăng trưởng GDP có thể đạt 7,3 -7,6% năm 2022 và 7-7,5% năm 2023. Theo kịch bản cơ sở, GDP tăng 6,8 - 7,1%. Trường hợp tiêu cực, GDP tăng 6 - 6,5%. CPI bình quân tăng lên mức 3,8-4,2%”, TS. Cấn Văn Lực nhận định.

Trước bối cảnh đó, nhóm nghiên cứu của TS Cấn Văn Lực dự báo nợ xấu nội bảng năm 2022 sẽ được đẩy lên mức 2 % và nợ xấu gộp ở mức khoảng 6%. “Mặc dù hiện nợ xấu nội bảng chỉ đang ở mức khoảng 1,4% nhưng tháng 6 vừa qua Thông tư 14 đã hết hiệu lực. Nếu như Thông tư này không được gia hạn thì những khoản lẽ ra không phải chuyển nhóm nợ sẽ phải chuyển nhóm. Như vậy đương nhiên nợ xấu sẽ tăng. Nợ xấu gộp sẽ giảm một chút bởi vì kinh tế Việt Nam phục hồi tốt hơn kỳ vọng thì nợ xấu tiềm ẩn sẽ giảm đi tương ứng”, TS Cấn Văn Lực cho biết.

“Rõ ràng Nghị quyết 42 đạt hiệu quả nhưng so với kỳ vọng, chúng ta cần phải nâng thêm một bước nữa về tính hiệu quả khi qua giai đoạn thí điểm”, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội khóa XV cho biết. Theo đó, sau Nghị quyết 42, Việt Nam phải sửa đổi, rà soát toàn bộ hệ thống pháp luật để đẩy nhanh các thủ tục hành chính, khi đó mới gia tăng hiệu quả của cả nền kinh tế.

Chẳng hạn, liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp các hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp hiện nay theo con đường tòa án hiện nay, dẫn chứng báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Quốc hội nêu rõ: Thực tế, Việt Nam là một trong những quốc gia có thời hạn giải quyết một tranh chấp dân sự kinh tế rất dài, làm giảm hiệu quả cho nền kinh tế và hiệu quả kinh doanh nói chung.

TS Cấn Văn Lực đã chỉ ra một số lý do cần luật hóa Nghị quyết 42 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD. Thứ nhất: Nghị quyết 42 đã phát huy hiệu quả rất tốt trong thời gian vừa qua. Nhờ thế mà nợ xấu giảm rõ rệt. Đặc biệt, nếu không có dịch COVID-19 bùng phát năm 2020 và 2021, sứ mệnh đưa nợ xấu gộp xuống dưới 3% đã hoàn thành cuối năm 2020.

Thứ hai, còn một số vướng mắc trong xử lý nợ xấu bộc lộ trong thời gian thực hiện Nghị quyết 42 thì phải xử lý nốt trong thời gian được gia hạn. Sau đó, khi luật hóa xử lý nợ xấu thì phải lưu ý các vướng mắc đó để không lặp lại.

Thứ ba, nợ xấu là vấn đề liên tục. Các ngân hàng nước ngoài thường chấp nhận tỷ lệ rủi do nợ xấu đâu đó khoảng 2 đến  %. Nợ xấu ư liên tục xảy ra chứ không phải chỉ xuất hiện trong thời kỳ kinh tế khó khăn. Như vậy, phải có một khung pháp lý cho nó chứ không để cho nó cộng dồn, tích tụ tạo nên những nguy cơ, những điểm tắc nghẽn cho kinh tế quốc gia.

Thứ tư, luật hoá Nghị quyết 42 là góp phần hoàn thiện thể chế, tăng tính hiệu lực, hiệu quả cho pháp luật. Hiện nay, quy mô nợ xấu tuyệt đối đã thay đổi rất lớn. Nếu không luật hóa xử lý nợ xấu mà lại quay trở về dùng những luật cũ ví dụ Luật dân sự, Luật doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến việc lúng túng và chồng chéo. Cuối cùng, việc luật hoá Nghị quyết 42 sẽ góp phần khắc phục bất cập, tăng hiệu quả xử lý nợ xấu; qua đó, tăng nguồn lực và tiết giảm chi phí cho hệ thống tổ chức tín dụng, các bên liên quan và nền kinh tế.

Dù chưa rõ ràng hình hài khung pháp lý nợ xấu sau khi Nghị quyết 42 kết thúc nhưng theo ông Phan Đức Hiếu, việc đầu tiên Việt Nam phải đề cao, phải tôn trọng, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cả hai bên - ngân hàng và cả những người đi vay nợ. Đây là quyền và lợi ích hợp pháp đều phải được bảo đảm. "Về mặt phạm vi, rõ ràng NHNN nên rà soát ở một phạm vi rộng nhất có thể, trong nguồn lực và thời hạn và tất nhiên là liên quan trực tiếp đến vấn đề xử lý nợ xấu và các tài sản có liên quan đến nợ xấu", ông Phan Đức Hiếu gợi ý.

Minh Phương/Báo Tin tức
Nỗ lực giảm lãi suất cho doanh nghiệp và xử lý nợ xấu
Nỗ lực giảm lãi suất cho doanh nghiệp và xử lý nợ xấu

Tiếp tục chương trình làm việc, chiều 8/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội về những nội dung liên quan đến chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước. 

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN