Ông Kolesnik Nikolai Nikolaevich. |
Nhân kỷ niệm 36 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2011), phóng viên TTXVN tại LB Nga đã có cuộc phỏng vấn ông Kolesnik Nikolai Nikolaevich, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tổ chức xã hội liên khu vực các cựu chuyên gia quân sự tại Việt Nam, nguyên là chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam những năm 1965 – 1966, chỉ huy Trung đoàn tên lửa – phòng không thuộc Sư đoàn 61.
Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Việt Nam chuẩn bị kỷ niệm lần thứ 36 ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2011). Là người trực tiếp tham gia và tận mắt chứng kiến cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, ông có thể chia sẻ cảm tưởng của ông về những ngày tháng chiến tranh ác liệt đó?
Mùa xuân năm 1965, tôi được cử sang Việt Nam và công tác cho tới tháng 3/1966. Trước khi tới Việt Nam, chỉ huy của chúng tôi là Ivan Konstantinnovich Proskurin nói với chúng tôi: “Chúng ta được cử đi công tác tới một miền khí hậu nhiệt đới nóng bức, ở đó đang diễn ra một cuộc chiến tranh”. Chúng tôi đoán đó là Việt Nam. Ngay lập tức, chúng tôi chuẩn bị mọi thứ để lên đường. Máy bay đưa chúng tôi tới Hà Nội, quá cảnh qua Irkurk và Trung Quốc. Tôi được biên chế vào Trung đoàn tên lửa – phòng không đầu tiên 236 thuộc Sư đoàn 61. Công việc của tôi là giảng dạy cho bộ đội phòng không – tên lửa của Việt Nam cách sử dụng, điều khiển những tổ hợp tên lửa, thiết bị kỹ thuật quân sự hiện đại do Liên Xô cung cấp.
Ông Kolesnik Nikolai Nikolaevich (phải) trò chuyện với phóng viên TTXVN tại LB Nga. |
Thời kỳ 1965 - 1966, đế quốc Mỹ mở rộng và tăng cường cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam. Cuộc chiến tranh diễn ra hết sức ác liệt. Tôi nhớ, máy bay Mỹ quần thảo trên bầu trời suốt ngày đêm. Chúng ném bom đạn xuống các nhà máy, xí nghiệp, làng mạc, phá hủy nhiều ngôi nhà, giết hại nhiều dân thường. Trên thực tế không còn một chỗ nào, một nơi nào trên mảnh đất Việt Nam không bị bom đạn trút xuống. Tôi rất khâm phục tinh thần chiến đấu kiên cường của bộ đội Việt Nam. Ngày đêm họ trực chiến trên chiến hào, sẵn sàng giáng trả những đợt oanh kích của từng tốp máy bay Mỹ. Các chuyên gia và bộ đội tên lửa Việt Nam rất thông minh, tiếp thu rất nhanh. Họ nắm vững các kiến thức kỹ thuật quân sự mới và vận dụng sáng tạo trong chiến đấu.
Chiến tranh ác liệt là vậy, nhưng nơi đây cuộc sống thường nhật vẫn diễn ra bình thường. Công nhân vẫn đến nhà máy, nông dân vẫn ra đồng, trẻ em vẫn tới trường. Các bạn thật sự là một dân tộc anh hùng.
Với sự giúp đỡ của Liên Xô, sự ủng hộ của các nước khác trong phe XHCN và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi cuối cùng: Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975. Ông đánh giá thế nào về thắng lợi vĩ đại này?
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam trước những kẻ xâm lược là vô cùng vĩ đại. Tôi muốn nói một điều, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là những người yêu nước chân chính. Họ hiểu rất rõ mục đích chiến đấu của mình. Tinh thần chiến đấu và sự kiên cường của bộ đội Việt Nam vô cùng cao. Họ học tập và chiến đấu quên mình, mặc dầu cuộc sống còn rất nhiều khó khăn vì nền kinh tế bị chiến tranh kéo dài tàn phá.
Tôi tự hào trong những năm tháng chiến tranh, chúng tôi đã giúp đỡ bộ đội Việt Nam đánh bại các cuộc tấn công bằng không quân của Mỹ. Chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình với một niềm tin kiên định rằng chúng tôi đang thực hiện một sứ mệnh cao cả - đó là giúp đỡ nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước.
Ông đánh giá thế nào về mối quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác chiến lược giữa Việt Nam và LB Nga hiện nay?
Tình hữu nghị giữa hai dân tộc chúng ta được sinh ra trong chiến đấu, được củng cố bằng mồ hôi và máu của những đồng đội trong những năm tháng chiến tranh. Không phụ thuộc vào những thay đổi của tình hình chính trị hiện nay, mối tình hữu nghị được trải qua thử thách này sẽ tiếp tục phát triển. Các cựu chiến binh Nga và Việt Nam nói riêng và nhân dân hai nước nói chung sẽ mãi mãi quý trọng và vun đắp cho mối tình hữu nghị này.
Kể từ khi chiến tranh kết thúc, ông đã trở lại thăm Việt Nam một số lần. Ông có nhận xét gì về công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay?
Việt Nam đang phát triển rất nhanh. Trong mỗi chuyến thăm, chúng tôi đều rất ngạc nhiên trước những đổi thay to lớn ở những thành phố, làng mạc của Việt Nam trong những năm gần đây. Việt Nam hiện nay như một công trường xây dựng: Các khu nhà ở mới, khách sạn, đường sá, khu công nghiệp, trung tâm thương mại, khu nghỉ dưỡng... mọc lên ở khắp mọi nơi. Trên những con đường có rất nhiều xe máy, ô tô. Một sự đổi thay không thể tưởng tượng được. So với những gì mà tôi thấy trong thời kỳ chiến tranh, Việt Nam bây giờ là một đất nước hoàn toàn khác mà có khi chính các bạn cũng không nhận thấy. Những thành tựu mà các bạn đạt được hôm nay chính là chiến công to lớn trong thời bình.
Điều đặc biệt ấn tượng đối với tôi nữa là thái độ thân thiện, mến khách của nhân dân Việt Nam. Các bạn là những người bạn thủy chung, không quên sự giúp đỡ của Liên Xô trong thời gian chiến tranh. Tôi chân thành chúc cho đất nước các bạn phát triển, phồn thịnh và hạnh phúc.
Ông có muốn trở lại thăm Việt Nam thêm một lần nữa?
Trở lại thăm Việt Nam luôn là mong ước của tôi. Ở Việt Nam, tôi luôn cảm thấy như ở nhà mình. Con người, thiên nhiên, thái độ kính trọng đối với các cựu chuyên gia làm tôi rất thích. Tôi luôn luôn nhớ những đồng đội cũ của mình ở Sư đoàn 61. Hiện nay tôi vẫn thường xuyên liên lạc với một số người.
Tôi xin chúc mừng toàn thể các bạn chiến đấu của mình – các cựu chiến binh, toàn thể chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn thể nhân dân Việt Nam nhân kỷ niệm 36 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xin cảm ơn và chúc ông có nhiều dịp trở lại thăm đất nước Việt Nam.
Cường Dũng (P/v TTXVN tại LB Nga thực hiện)