Điều này thể hiện qua việc nhiều quốc gia ven biển mới và nhỏ đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán và UNCLOS 1982 đã cho phép các quốc gia này đưa ra những tuyên bố hợp pháp đối với các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), trong một số trường hợp là những vùng biển rộng lớn. Mặc dù các quy định của UNCLOS vẫn còn một số hạn chế, song Công ước thực sự đã tạo ra một khuôn khổ cho một trật tự hàng hải toàn cầu công bằng và bình đẳng mà nhiều quốc gia tiếp tục ủng hộ, duy trì và bảo vệ.
Theo Tiến sĩ Strating, nhiều quốc gia ở châu Á tiếp tục ủng hộ một trật tự hàng hải được xác lập dựa trên UNCLOS, ngay cả khi một số quy định cụ thể trong công ước được các nước diễn giải khác nhau. Các điều khoản giải quyết xung đột trong UNCLOS đã được sử dụng để giúp giải quyết các tranh chấp trên biển trên khắp châu Á, điển hình như tranh chấp về phân định ranh giới lãnh hải giữa Australia và Timor-Leste, tranh chấp về phân định ranh giới biển tại Vịnh Bengal giữa Bangladesh và Ấn Độ... Mặc dù các tranh chấp này có thể chưa được giải quyết triệt để, UNCLOS đã cung cấp cơ sở pháp lý cho các quốc gia đảo và ven biển thực hiện quyền tài phán. Tại Nam Thái Bình Dương, các quốc đảo đang đi đầu trong các cuộc thảo luận quốc tế về cách thức luật biển trong khuôn khổ UNCLOS nên ứng phó với vấn đề mực nước biển dâng và ảnh hưởng của vấn đề này đối với biên giới trên biển. Phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng tài thường trực (PCA) ở La Haye (Hà Lan) về vụ kiện tranh chấp trên Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc đã được các quốc gia khu vực trong và ngoài Đông Nam Á đã sử dụng trong hoạt động ngoại giao công khai và hợp pháp nhằm ủng hộ các nguyên tắc của một trật tự phù hợp với UNCLOS 1982.
Liên quan vai trò của Nhóm bạn bè UNCLOS 1982 được thành lập tháng 6/2021 mà Việt Nam mà một trong các nước sáng lập, Tiến sĩ Strating nhận định việc đưa ra các sáng kiến ngoại giao như vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc tập hợp sự ủng hộ của các quốc gia cùng chung chí hướng nhằm đảm bảo trật tự hàng hải dựa trên UNCLOS 1982 và luật biển quốc tế .
Đề cập Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Tiến sĩ Strating đánh giá việc đạt dược DOC là một thành công đối với các quốc gia Đông Nam Á vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc ký một thỏa thuận đa phương về vấn đề Biển Đông. DOC đã tạo tiền đề cho các cuộc đàm phán đa quốc gia, bao gồm Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Tuy nhiên, thực tế ở Biển Đông đã thay đổi đáng kể kể từ khi DOC được ký kết, trong khi đó tiến độ về đàm phán COC đã chậm lại do dịch COVID-19 và những khác biệt về lập trường của các quốc gia liên quan.