Theo phóng viên TTXVN tại Kuala Lumpur, phát biểu tại phiên họp Thượng viện, Thứ trưởng Noor đã khuyến nghị 3 biện pháp gồm nâng cao khả năng sẵn sàng ứng phó với những biến thể đáng quan tâm mới xuất hiện; tiếp tục mở rộng độ bao phủ vaccine, bao gồm việc tiêm mũi tăng cường; cung cấp thêm thông tin để người dân nâng cao cảnh giác với dịch bệnh. Ông Noor cho biết, đến thời điểm hiện tại, Malaysia chỉ còn 2 bang Sarawak và Kelantan đang ở giai đoạn 3 của Kế hoạch phục hồi quốc gia, còn những bang còn lại đang ở giai đoạn 4 - giai đoạn "bình thường mới". Do vậy, Malaysia đã sẵn sàng chuyển sang giai đoạn bệnh đặc hữu, sống chung an toàn với COVID-19.
Thứ trưởng Noor cho biết trong thời gian tới, Bộ Y tế Malaysia sẽ đề ra 2 mục tiêu, 7 tiêu chí và 13 thông số để có thể thực thi quá trình chuyển đổi. Theo đó, mục tiêu thứ nhất gồm 4 tiêu chí: số ca nhiễm, số ca tử vong, tỷ lệ lây nhiễm và tỷ lệ hoàn thành tiêm chủng. Mục tiêu thứ hai gồm 3 tiêu chí: năng lực điều trị của bệnh viện, năng lực xét nghiệm và số nhân viên y tế. Bên cạnh đó, 13 thông số bao gồm: tỷ lệ mắc COVID-19 liên quan đến mức độ 3,4 và 5 (trong đó mức độ 5 là nặng nhất phải hỗ trợ thở máy) tính trên 100.000 người; tỷ lệ mắc COVID-19 liên quan đến đối tượng trên 60 tuổi; tỷ lệ tử vong trung bình trong 7 ngày; tỷ lệ nhiễm trung bình trong 7 ngày tính trên 100.000 người; tỷ lệ ca dương tính phát hiện trong quá trình khám chữa bệnh hoặc trước khi phẫu thuật...; tỷ lệ hoàn thành tiêm chủng; tỷ lệ giường điều trị tích cực (ICU) và tỷ lệ số nhân viên y tế tái nhiễm virus.
Cũng theo quan chức trên, việc Malaysia chuyển sang giai đoạn đặc hữu của dịch bệnh là rất quan trọng, đảm bảo số ca mắc mới và số ca tử vong vì COVID-19 vẫn nằm trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, ông khẳng định chính phủ nước này sẽ tiếp tục có những biện pháp can thiệp để kiểm soát sự lây lan của virus ngay cả trong giai đoạn bệnh đặc hữu.
Theo Tiến sĩ Noor Hisham Abdullah - quan chức cấp cao Bộ Y tế Malaysia , tỷ lệ lây nhiễm SARS-CoV-2 đang giảm dần và hiện ở mức 180,91 ca trên 1 triệu dân. Tỷ lệ này ở Singapore và Brunei lần lượt là 584,86 ca và 499 ca.