Theo kênh CNN, dấu hiệu trên cho thấy nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đang phục hồi nhanh chóng. Không chỉ thế, người dân trong nước còn được di chuyển tự do khi hàng triệu người đi khắp đất nước trong kỳ nghỉ Tuần lễ Vàng dịp Quốc khánh.
Với nhiều người ở châu Âu, cách xử lý COVID-19 của Trung Quốc bị coi là hà khắc, đặt biệt là khi phong tỏa thành phố Vũ Hán trong 76 ngày khi các ca mắc COVID-19 đầu tiên được phát hiện ở đây vào cuối năm 2019.
Tuy nhiên, nhiều khu vực khác ở Trung Quốc không bao giờ bị áp dụng các biện pháp hạn chế nghiêm ngặt như vậy, kể cả trong giai đoạn đầu đại dịch khi một số thành phố khắp Trung Quốc bị phong tỏa như Vũ Hán.
Trung Quốc thành công trong kiểm soát dịch không hẳn chỉ nhờ các biện pháp kiểm soát từ sớm mà là nhờ cách nước này xử lý mọi việc sau khi người dân được di chuyển tự do.
Cụ thể, Trung Quốc có thể theo dõi và truy vết các ca bệnh khắp nước mỗi khi có chùm ca bệnh mới. Giới chức Trung Quốc phản ứng nhanh chóng và kiểm soát các ổ dịch tại từng địa phương.
Trung Quốc đã áp dụng hệ thống mã sức khỏe phân loại theo màu để theo dõi hoạt động di chuyển của người dân. Ai có tình trạng sức khỏe tốt và mã QR tương ứng màu xanh mới được vào các doanh nghiệp. Từ đó, giới chức đảm bảo gần như mọi người đều áp dụng biện pháp này, giúp việc truy vết tiếp xúc trong trường hợp xảy ra đợt bùng phát dịch trở nên dễ dàng hơn.
Các biện pháp này cho phép chính quyền địa phương phong tỏa từng khu vực cụ thể hoặc thực hiện xét nghiệm hàng loạt khi cần thiết. Thành phố Thanh Đảo ở đông bắc là ví dụ gần đây nhất. Trên 10 triệu dân Thanh Đảo đã được xét nghiệm trong vòng một tuần sau khi ghi nhận 12 ca nhiễm trong cộng đồng.
Giữa các tỉnh và khu vực, biên giới trước đây gần như không có nay đã được kiểm soát ngày càng chặt. Vì thế, phương tiện công cộng có thể bị hạn chế hoặc bị chặn hoàn toàn nếu bùng phát dịch. Nhập cảnh Trung Quốc cũng bị hạn chế nghiêm ngặt với nhiều biện pháp cách ly bắt buộc với hành khác tới.
Người dân cũng đeo khẩu trang và tuân thủ các quy định vệ sinh nơi công cộng nhờ chiến dịch tuyên truyền rộng rãi và giám sát chặt chẽ của chính quyền.
Biện pháp này được áp dụng và hiệu quả ở nhiều nước châu Á mà không cần đe dọa hay trừng phạt.
Cách phản ứng hiệu quả với virus SARS-Co-2 ở Trung Quốc và nhiều nơi khắp châu Á là nhờ thái độ tuân thủ của người dân, khác hẳn với châu Âu.
Đông Á đã trải qua dịch SARS năm 2003 và ký ức về đợt dịch này vẫn còn rõ nét, khiến họ dễ chấp nhận đeo khẩu trang và các biện pháp phòng ngừa. Còn tại nhiều nơi ở châu Âu và phương Tây, đặc biệt là Mỹ, đeo khẩu trang còn là vấn đề gây tranh cãi ngay cả đến tận bây giờ, khi mà khẩu trang đã được chứng minh hiệu quả phòng dịch.
Các nước châu Á đã có sẵn kế hoạch phòng chống dịch bệnh để xử lý các đợt dịch bùng phát và không phải vội vã xây dựng kế hoạch như ở phương Tây.
Sau khi Trung Quốc bị chỉ trích vì cách xử lý dịch ban đầu ở Vũ Hán, nước này đã thừa nhận COVID-19 là mối đe dọa quốc gia và lập tức thay đổi các phản ứng với dịch bệnh. Còn ở châu Âu và Mỹ, ngay cả khi thừa nhận mối đe dọa của dịch bệnh nhưng nhiều nước vẫn còn lưỡng lự trong chống dịch bệnh.
Trung Quốc cũng cảnh giác cao kể cả khi đã quay trở lại trạng thái bình thường. Nước này có thể phản ứng nhanh với chùm ca bệnh mới, theo dõi và lần dấu vết của những người có nguy cơ mắc bệnh thông qua mã QR, ứng dụng, hệ thống camera giám sát rộng khắp. Các nỗ lực tương tự cũng được thực hiện ở Hàn Quốc và nhiều nước châu Á.
Trái lại, công tác truy vết ở phần lớn châu Âu vẫn không hiệu quả. Nhiều nước thiếu khả năng xét nghiệm hàng loạt. Sau khi thực hiện xét nghiệm, nhiều nước cũng không thể đủ cơ sở hạ tầng để theo dõi người tiếp xúc và cách ly chùm ca bệnh.
Không chỉ thế, biên giới châu Âu vẫn khá rộng mở cho dù Liên minh châu Âu có quyền đóng biên giới vì sức khỏe cộng đồng. Khách du lịch mùa hè đi lại giữa nhiều nơi và gây ra các đợt bùng phát dịch gần đây.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lưu ý từ tháng 2 rằng phần lớn cộng đồng toàn cầu vẫn chưa sẵn sàng về tâm lý và vật chất để thực hiện các biện pháp kiềm chế dịch như ở Trung Quốc.
WHO cho rằng cần phải giám sát cực kỳ chủ động nhằm phát hiện ca bệnh ngay lập tức, nhanh chóng chẩn đoán và cách ly, theo dõi sát sao và cách ly người tiếp xúc, nâng cao nhận thức của người dân và khiến họ chấp nhận các biện pháp phòng dịch.
Trong những tháng can thiệp chống dịch bệnh, các biện pháp ở Trung Quốc đã có hiệu quả. Các mô hình tương tự cũng thành công ở Hàn Quốc, Nhật Bản và một số nước khác ở châu Á. Trong khi đó, châu Âu vẫn bị bỏ lại phía sau trong cuộc chiến với đại dịch và đang chật vật với làn sóng thứ hai.