Chỉ trong vòng 2 tháng (từ tháng 12/2020 đến tháng 1/2021), nhiều loại vaccine đã được công bố, tuy nhiên phụ nữ mang thai không nằm trong các đối tượng được thử nghiệm và bị loại khỏi các thử nghiệm ban đầu đối với hầu hết các loại vaccine ngừa COVID-19, trong đó bao gồm cả vaccine do Pfizer/BioNTech bào chế dựa trên công nghệ mRNA.
Sự không chắc chắn về tính an toàn của vaccine ngừa COVID-19 được xem là một trong những lý do chính khiến các thai phụ chần chừ trong việc tiêm phòng. Tuy các nghiên cứu trước đó về vaccine ngừa COVID-19 vẫn cho thấy thai phụ cần tiêm phòng để giảm thiểu lây nhiễm, nhưng quy mô khảo sát đối với trẻ sơ sinh là chưa đủ rộng và thiếu sự so sánh giữa các nhóm đối tượng.
Trong một nghiên cứu mới công bố trên JAMA Pediatrics - tạp chí y khoa của Hiệp hội Y khoa Mỹ, các nhà khoa học đã sử dụng dữ liệu thống kê từ quỹ y tế Maccabi - vốn tập hợp thông tin của hơn 25% dân số tại Israel. Kể từ ngày 19/1/2021, tiêm chủng ngừa COVID-19 đã được khuyến cáo thực hiện đối với tất cả các phụ nữ mang thai ở nước này.
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những sản phụ và trẻ sơ sinh trong khoảng thời gian từ ngày 1/3/2021 đến ngày 31/9/2021. Tổng cộng có khoảng 24.000 trẻ sơ sinh, trong đó khoảng 16.700 trẻ là con của những người mẹ đã được tiêm vaccine ngừa COVID-19 của Pfizer/BioNTech trong thai kỳ.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh non và trẻ sinh ra bị nhẹ cân hơn so với tuổi thai ở cả hai nhóm là tương đương nhau. Tỷ lệ trẻ dưới 1 tháng tuổi phải nhập viện và điều trị chứng vàng da sơ sinh bằng hình thức chiếu đèn cũng ở mức tương đồng. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 0,1% ở cả hai nhóm. Về tổng thể, số trẻ có các dị tật bẩm sinh và dị tật tim ở hai nhóm là như nhau, nhưng số trẻ bị dị tật tim nghiêm trọng ở nhóm có mẹ tiêm vaccine trong 3 tháng đầu thai kỳ chỉ bằng một nửa so với nhóm không tiêm.
Theo nghiên cứu này, việc tiêm vaccine trong 3 tháng đầu và 3 tháng giữa thai kỳ không cho thấy nhiều sự khác biệt về ảnh hưởng của chúng đối với tuổi thai và cân nặng của trẻ sơ sinh.