Biển Đông là một trong những vùng biển chiến lược quan trọng nhất trên thế giới với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng dầu mỏ, khí đốt dồi dào, tập trung nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế chủ chốt. Tuy nhiên, đây cũng là khu vực tồn tại nhiều tranh chấp phức tạp đan xen chưa được giải quyết giữa các bên, trong đó bao gồm cả các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp về các vùng biển. Sau một loạt diễn biến phức tạp ở Biển Đông cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, cả ASEAN và Trung Quốc đều nhận thấy cần thiết có một bộ quy tắc ứng xử để điều chỉnh hành vi của các bên liên quan tại Biển Đông. Trên cơ sở đó, năm 2000, hai bên đã chính thức khởi động tiến trình đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Trong quá trình đàm phán COC, ASEAN và Trung Quốc nhất trí trước mắt thông qua DOC như một văn kiện chính trị giữa hai bên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm giải pháp hòa bình và lâu dài cho tranh chấp ở Biển Đông, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác hiện có giữa các bên ký kết. Việt Nam đã góp phần đáng kể trong thúc đẩy ký kết DOC.
Tiến sĩ Vũ Hải Đăng, chuyên gia cao cấp về luật và chính sách đại dương thuộc Trung tâm luật quốc tế - Đại học Quốc gia Singapore, đánh giá DOC năm 2002 là thành quả của quá trình đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm đạt được một COC. DOC có ý nghĩa quan trọng bởi là đây là cơ chế chính thức duy nhất giữa ASEAN và Trung Quốc nhằm trao đổi, thảo luận chuyên sâu về Biển Đông. Vì vậy, việc ký kết DOC năm 2002 là một bước tiến quan trọng trong đối thoại giữa ASEAN và Trung Quốc về vấn đề Biển Đông.
Tại Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 14 về chủ đề “Biển hòa bình - Phục hồi bền vững” diễn ra tại Hà Nội tháng 11 vừa qua nhân 40 năm UNCLOS và 20 năm DOC, nhiều học giả quốc tế đánh giá rằng DOC là thành tựu quan trọng giữa ASEAN và Trung Quốc, cho thấy các bên có thể hợp tác để tìm kiếm tương đồng vì mục đích chung dù vẫn còn tồn tại nhiều khác biệt. Việc đạt được tuyên bố DOC có ý nghĩa khởi đầu cho những nỗ lực chung thúc đẩy hợp tác tại khu vực, là cơ sở cho quá trình tham vấn về COC trong tương lai.
Khi ký DOC, cả ASEAN và Trung Quốc nhất trí cam kết với các nguyên tắc được quy định trong Hiến chương LHQ, UNCLOS 1982, Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác tại Đông Nam Á năm 1976 và Năm nguyên tắc chung sống hòa bình. Các bên cũng đồng ý giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua tham vấn và đàm phán thân thiện giữa các quốc gia có chủ quyền trực tiếp liên quan theo các nguyên tắc của luật quốc tế được công nhận rộng rãi và "không đe dọa hay sử dụng vũ lực". Các bên còn cam kết tự kiềm chế trong các hành động có thể gây ra xung đột, và tăng cường nỗ lực để "xây dựng lòng tin giữa các bên"...
Theo chuyên gia cấp cao Veeramalla Anjaiah thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á (CSEAS) của Indonesia, DOC thể hiện rõ hai mục đích là thúc đẩy các biện pháp xây dựng lòng tin và tham gia vào hợp tác hàng hải thiết thực. Tháng 7/2011, hai bên đã thông qua Quy tắc hướng dẫn triển khai DOC, việc thực thi DOC giữa ASEAN và Trung Quốc cũng được quan tâm, trong khi một số lĩnh vực, dự án hợp tác cụ thể đã được triển khai.
DOC cũng được đánh giá là xuất phát điểm và nền tảng vững chắc để đàm phán COC. Về cơ bản, các nguyên tắc và quy tắc hành vi, cơ chế đối thoại và trao đổi, sáng kiến hợp tác trên biển quan trọng mà DOC đưa ra đã tạo cơ sở cho ASEAN và Trung Quốc xây dựng COC. Bên cạnh đó, việc tuân thủ nghiêm túc và thực thi DOC một cách có trách nhiệm và thiện chí, trên tinh thần hợp tác, phù hợp luật pháp quốc tế, nhất là UNCLOS 1982, cũng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy đàm phán COC.
Tuy nhiên, theo chuyên gia cấp cao Veeramalla Anjaiah, do không mang tính chất ràng buộc về mặt pháp lý, DOC chưa hiệu quả để giải quyết các tranh chấp trên biển. Đó là lý do cần có COC ở Biển Đông, trong đó nội dung phải mang tính chất ràng buộc pháp lý và dựa vào UNCLOS 1982.
Chia sẻ quan điểm trên, Giáo sư, Tiến sĩ Thomas Engelbert - chuyên gia nghiên cứu về Biển Đông tại Đại học Hamburg (Đức) cho rằng tại khu vực Biển Đông, thời gian qua tình hình tiếp tục có nhiều phức tạp. Những vi phạm luật pháp quốc tế vẫn tiếp diễn, quá trình quân sự hóa Biển Đông được đẩy nhanh hơn, nguy cơ đụng độ quân sự trực tiếp trên biển luôn tiềm ẩn. Điều đó dẫn tới yêu cầu cấp thiết phải đẩy nhanh quá trình đàm phán COC.
Tiến sĩ BecStrating thuộc Đại học La Trobe ở Melbourne (Australia) nhận định thực tế tình hình ở Biển Đông đã thay đổi đáng kể từ khi DOC được ký kết năm 2002, đặc biệt là liên quan đến việc xây dựng đảo nhân tạo, các cơ sở quân sự mới và việc gia tăng sử dụng các chiến thuật được gọi là “vùng xám”.
Trước thực tế đó, theo Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao, thành viên Ủy ban Luật quốc tế của LHQ, DOC chưa thể ngăn cản các hành vi làm phức tạp tình hình. Thậm chí, tình hình hiện nay còn diễn biến phức tạp hơn trước khi có DOC. Do đó, việc xây dựng một COC thực chất và hiệu quả đã trở thành mục tiêu mà các quốc gia khác trong khu vực hướng đến.
Thời gian qua, cả ASEAN và Trung Quốc đều thể hiện mong muốn sớm đạt được một COC hiệu quả, thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982 .Đầu tháng 10 vừa qua tại Campuchia đã diễn ra cuộc họp lần thứ 37 Nhóm công tác chung ASEAN - Trung Quốc về thực hiện DOC. Tại cuộc họp này, ASEAN và Trung Quốc đã tiến hành trao đổi về tình hình Biển Đông, việc thực hiện DOC và việc xây dựng COC, khẳng định tầm quan trọng của hòa bình, an ninh, ổn định, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Tổng Thư ký ASEAN Dato Lim Jock Ho tuyên bố, bất chấp nhiều thách thức, bao gồm cả sự đình trệ do dịch COVID-19, các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc đã nỗ lực để nối lại đàm phán về COC và duy trì động lực của tiến trình này thông qua các nền tảng và hội nghị trực tuyến. Tới thời điểm này, ASEAN và Trung Quốc đã hoàn thành vòng rà soát thứ nhất và đang tiến hành vòng rà soát thứ hai văn bản đàm phán đơn nhất dự thảo COC.
Tuy nhiên, tiến trình đàm phán COC vẫn còn khó khăn. Giáo sư Carl Thayer nhận định trở ngại lớn nhất đối với các cuộc đàm phán hiện tại, ngoài đại dịch COVID-19, là những hành động đơn phương làm phức tạp tình hình ở Biển Đông. Bên cạnh đó, vẫn còn khác biệt về quan điểm của các bên liên quan tới những vấn đề như phạm vi địa lý, tình trạng pháp lý của quy tắc ứng xử, các biện pháp thực thi... Ông Aristyo Rizka Darmawan, chuyên gia luật quốc tế và an ninh hàng hải thuộc Đại học Indonesia thì nhấn mạnh bất kể COC có ràng buộc về mặt pháp lý hay không thì điều cốt yếu là phải xây dựng cơ chế giám sát và tuân thủ để đảm bảo tính hiệu quả của bộ quy tắc. Thành công của COC phải được đo lường bằng mức độ các bên tuân thủ.
Nền tảng của đối thoại COC là sự tin tưởng lẫn nhau. Nhiều chuyên gia quốc tế đánh giá trong thời gian tới, khi chờ đợi COC, các nước ASEAN và Trung Quốc cần thực thi một cách đầy đủ và nghiêm túc, thiện chí DOC. Trong khi đó, Giáo sư Engelbert cho rằng các quốc gia trong khu vực Biển Đông cần kiềm chế hành động, tôn trọng luật pháp quốc tế, nỗ lực cùng nhau giải quyết xung đột thông qua các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982. Điều đó sẽ góp phần xây dựng lòng tin để có thể thúc đẩy đàm phán COC.
Bài cuối: Việt Nam thể hiện vai trò chủ động và trách nhiệm