Theo một số chuyên gia tài chính, với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ di động, những năm gần đây, Fintech đã có sự phát triển vượt bậc, làm thay đổi diện mạo hệ thống tài chính - ngân hàng, đem lại thuận tiện cho các giao dịch kinh doanh - tiêu dùng.
Fintech giúp các giao dịch tài chính trở nên thuận lợi, tiện dụng với số đông người dùng, vì vậy cũng phát sinh quan ngại Fintech có thể bị lợi dụng cho các hoạt động không chính đáng. Do đó, thời gian vừa qua cơ quan quản lý có những động thái nhằm siết chặt quản lý lĩnh vực Fintech, trong đó đáng chú ý là một số dự thảo quy định pháp luật hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực trung gian thanh toán, hoặc hạn chế giá trị giao dịch và số tài khoản ví điện tử cũng như yêu cầu khai báo thông tin lại gây phiền hà cho người dùng…
Ông Ngô Văn Đức, Phó Trưởng phòng Giám sát các hệ thống thanh toán, Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước - NHNN) chia sẻ: Vài năm gần đây, hoạt động Fintech phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới, Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung và có nhiều tiềm năng phát triển. Hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam hiện nay có 30 tổ chức không phải ngân hàng đã được NHNN cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, 24 ngân hàng đã triển khai dịch vụ thanh toán QR Code, hơn 50.000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code, 76 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 44 tổ chức triển khai dịch vụ thanh toán điện thoại di động...
Với dân số 96,2 triệu dân, tỷ lệ tiếp cận các dịch vụ tài chính ngân hàng của người dân ước khoảng 45,8 triệu người trưởng thành có tài khoản ngân hàng hoặc tiếp cận với ít nhất 1 dịch vụ tài chính, chiếm 63% dân số. Quý II/2019, tốc độ phát triển của thanh toán dịch vụ ngân hàng qua mobile banking tăng trưởng 160%, trong khi tỷ lệ ở các nước trong khu vực chỉ ở mức 60 - 80%.
“Con số này thể hiện tỷ lệ sử dụng Internet và điện thoại di động tại Việt Nam cao, đây là một trong những lợi thế để các doanh nghiệp Fintech phát triển", ông Nghiêm Thanh Sơn, Phó Vụ trưởng Vụ Thanh toán (NHNN) nói.
Đề cập về dự thảo các quy định quản lý Fintech đang được đưa ra lấy ý kiến, ông Phùng Anh Tuấn cho rằng: Fintech cần có vốn đầu tư nước ngoài, nên việc hạn chế nguồn vốn này sẽ kìm hãm sự phát triển của Fintech. Nếu giới hạn đầu tư nước ngoài ở dưới mức 50% như dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 101/CP của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt thì khó có thể kêu gọi các nhà đầu tư, tổ chức chuyên nghiệp tham gia Fintech.
"Việc sử dụng cơ chế quản lý ngân hàng vào Fintech sẽ không hiệu quả và kìm hãm sự phát triển của lĩnh vực này. Do đó, việc xây dựng chính sách nên ưu tiên lợi ích số đông, không lấy một vài trường hợp vi phạm để hạn chế nhu cầu của đa số người dùng vì mục đích chính đáng", ông Phùng Anh Tuấn nói.
Đề cập tới việc hạn chế đầu tư nước ngoài vào Fintech, đại diện NHNN cho rằng: Hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực trung gian thanh toán dự kiến ở mức 30% (tương đương lĩnh vực ngân hàng), nhằm ổn định và an toàn trong chính sách tiền tệ của quốc gia, tránh sự thao túng của các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như để đảm bảo chủ quyền quốc gia trong hoạt động ngân hàng tài chính, tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong nước nắm bắt cơ hội.
Theo ông Varun Mittal, Phó Chủ tịch Hiệp hội Fintech Singapore, Trưởng Bộ phận tư vấn dịch vụ Fintech tại các thị trường mới của Ernst & Young Singapor, các start-up (khởi nghiệp) trong lĩnh vực này đều cần có sự đầu tư về công nghệ, thị trường và nhân sự, trong khi đó, các nguồn lực trong nước còn chưa đáp ứng được. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài còn cho phép doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận các thành quả công nghệ mới, đặc biệt trong các lĩnh vực dữ liệu lớn (big data) hay trí tuệ nhân tạo (AI), có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xây dựng các sản phẩm, giải pháp cho Fintech.
Liên quan tới định hướng chính sách cho Fintech, nhiều chuyên gia cũng nhận định, việc tăng cường quản lý là cần thiết, nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao tính bảo mật, an toàn cho các giao dịch tài chính, bảo vệ quyền lợi cho người dùng. Mặt khác, việc xây dựng chính sách cũng không nên vì một số trường hợp cá biệt mà áp đặt những hạn chế, ràng buộc, làm hạn chế số đông người dùng, làm giảm ý nghĩa tích cực của Fintech đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế số và chủ trương thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ.