Trước đợt cải tổ lớn, TSE có 4 sàn giao dịch gồm: thị trường Bảng 1 (First Section) dành cho các công ty lớn, thị trường Bảng 2 (Second Section) dành cho các công ty có quy mô trung bình, thị trường bảng 3 (Mothers Section) dành cho các công ty mới nổi hoặc có tốc độ tăng trưởng cao và JASDAQ. Sau khi cải tổ, TSE chỉ còn 3 sàn giao dịch, gồm thị trường chủ chốt (Prime), thị trường tiêu chuẩn (Standard) và thị trường tăng trưởng (Growth).
Các công ty niêm yết trên thị trường chủ chốt của TSE phải có khối lượng cổ phiếu lưu động trị giá ít nhất 10 tỷ yen (81,6 triệu USD) chiếm ít nhất 35% trong tổng số cổ phiếu đang lưu hành. Với tiêu chí đó, thị trường chủ chốt sẽ bao gồm 1.839 trong tổng số 3.771 công ty niêm yết trên TSE, trong đó các tập đoàn lớn như hãng chế tạo ô tô Toyota và tập đoàn điện tử Sony, trong khi thị trường tiêu chuẩn gồm 1.466 công ty có quy mô trung bình. Thị trường tăng trưởng gồm 466 công ty tăng trưởng và mới nổi.
Thông qua đợt cải tổ này, các nhà điều hành TSE cố gắng xác định rõ nội hàm của các sàn giao dịch và đem lại luồng sinh khí mới cho một thị trường, vốn đang tụt hậu với các đối thủ ở Mỹ về mặt vốn hóa. Bên cạnh đó, bằng cách siết chặt các tiêu chuẩn về thanh khoản và quản trị công ty, TSE hy vọng thị trường chủ chốt sẽ thu hút thêm các nhà đầu tư nước ngoài, vốn đang chiếm khoảng 70% trong tổng giá trị giao dịch trên thị trường Bảng 1 trước đây. Nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, TSE kêu gọi các công ty cải thiện năng lực quản trị công ty, bao gồm việc các giám đốc ở bên ngoái phải chiếm ít nhất 1/3 thành viên hội đồng quản trị và tăng cường sự minh bạch thông qua việc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư bằng tiếng Anh.
Được thành lập vào tháng 5/1878, TSE hiện là sở giao dịch chứng khoán lớn thứ 2 châu Á (sau Sở Giao dịch Chứng khoán Thượng Hải) và lớn thứ 5 trên thế giới, với tổng giá trị vốn hóa của các cổ phiếu niêm yết tính tới tháng 2/2022 là 6.170 tỷ USD. Trong quá khứ, TSE đã từng có lúc vượt qua Sở Giao dịch Chứng khoán New York để trở thành sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới về giá trị vốn hóa thị trường vào năm 1989 (tính theo tỷ giá giao dịch yen/USD vào thời điểm đó).