Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho rằng, nên chăng khi đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 43 của Quốc hội, cần phải đánh giá trong tổng thể các chính sách mà Việt Nam đã ban hành và thực hiện từ năm 2020 và cả những chính sách được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 31/12/2021 nhưng thực hiện cho năm 2022. Ví dụ, việc Việt Nam quyết định sử dụng kết dư của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp ngay một lúc chi tới .000 tỷ đồng bằng tiền mặt, sau đó, vẫn tiếp tục kéo dài chính sách này chi thêm hơn 1.500 tỷ đồng, cộng với 6.600 tỷ đồng hỗ trợ tiền thuê nhà (theo Nghị quyết số 43) là vào khoảng 2 tỷ USD, chưa kể phần chi khá lớn của các địa phương nhằm trợ cấp trực tiếp cho người dân, người lao động.
“Những chính sách đó có tính là chi trực tiếp cho người dân hay không? Chúng ta đánh giá chỉ có vấn đề giảm thuế thì không hiệu quả nếu chưa chi trực tiếp cho người dân. Vậy kinh nghiệm quốc tế chi trực tiếp cho người dân như thế nào? Nguồn từ đâu và tỷ trọng là bao nhiêu? Chưa kể trong giai đoạn 2019-2020, hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân của Việt Nam bằng tiền mặt là rất lớn. Như vậy để thấy rằng phương pháp tiếp cận đánh giá Nghị quyết 43 của Quốc hội, Nghị quyết số 11 của Chính phủ trong tổng thể các chính sách khi thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Nghị quyết 42 của Quốc hội trong suốt năm 2020 - 2021... Đây là vấn đề thuộc liên quan đến nhận thức và kinh nghiệm quốc tế vì mỗi nước có hoàn cảnh rất khác nhau”, Chủ tịch Quốc hội nói.
Nêu thực tế các nước có tỷ lệ lạm phát cao trong khi Việt Nam lại duy trì được ở mức thấp, Chủ tịch Quốc hội chia sẻ, Việt Nam đã nghiên cứu rất kỹ và thấy rằng, vì ngân sách Việt Nam tài khóa không có nhiều nên thay vì chi tiền trực tiếp cho người dân thì giảm thuế giá trị gia tăng 2% sẽ giúp bất cứ người dân nào cũng được hưởng, với số tiền ít hơn nhưng mua được nhiều hàng hóa hơn và thực thi rất nhanh. Chính sách này đã giảm thu ngân sách nhà nước mấy chục nghìn tỷ đồng. Vậy đây có phải là chính sách chi tiền trực tiếp không? Chưa kể chính sách này còn có tác động kép, góp phần giảm lạm phát. Đó là lý do giúp lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua giữ được ở mức thấp. Do đó, theo Chủ tịch Quốc hội phải tiếp tục nghiên cứu tiếp vấn đề này.
Liên quan đến vấn đề lao động, việc làm, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu thực tế tại nhiều nước sau đại dịch COVID-19: số người mất việc làm thì thấp nhưng người tham gia vào thị trường lao động cũng thấp. Tương tự như ở Việt Nam, số người nói là thất nghiệp không nhiều nhưng một số ngành lại thiếu lao động cục bộ. “Phải chăng có một bộ phận người lao động đang khu trú ở đâu đó sau đại dịch COVID -19? Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng cần nghiên cứu vấn đề này. Dường như có một bộ phận lao động chưa sẵn sàng quay trở lại làm việc. Trên thế giới, xu hướng này ra sao?”.
Chủ tịch Quốc hội đặt câu hỏi và cho rằng, có những vấn đề sau Diễn đàn có thể kết luận được, nhưng cũng có những vấn đề chưa thể kết luận được mà gợi mở để tiếp tục nghiên cứu cũng chính là kết quả của Diễn đàn.
Trả lời câu hỏi của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, ông Jonathan Picus, Chuyên gia Kinh tế Cao cấp của Tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam cho biết, thực tiễn từ châu Âu và Bắc Mỹ cho thấy, ảnh hưởng của chính sách tài khóa là nhỏ, trong khi những khoản chi tiêu trong gia đình mới đóng góp lớn vào khôi phục ngân sách Nhà nước. Từ góc độ cầu ở khu vực này, các khoản hỗ trợ người lao động từ ngân sách địa phương và ngân sách của doanh nghiệp. Với khoản hỗ trợ này, người lao động vẫn có thể đóng tiền nhà và trang trải các khoản chi phí sinh hoạt hàng ngày khác.
Chính sách giảm thuế thu nhập thường áp dụng trong các cuộc khủng hoảng không quá nghiêm trọng. Còn ích lợi của việc hỗ trợ bằng tiền mặt là giúp điều hòa nguồn thu ngân sách. Bởi vậy, Mỹ và châu Âu rất quan tâm tới chính sách này.
Về nguyên nhân người lao động không quay trở lại làm việc sau đại dịch, ông Jonathan Pincus cho rằng có thể là do sức khỏe của họ bị suy giảm sau đại dịch, vì thống kê cho thấy 10% người bị mắc COVID-19 có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe hậu COVID-19, nhất là với người lớn tuổi và cần nhiều thời gian để hồi phục.
Ngoài ra, tại một số quốc gia như Mỹ, Anh, tỷ lệ người nhập cư giảm trong giai đoạn đại dịch. Đây là một nhóm người rút khỏi thị trường lao động. Còn ở trong nước (ở Mỹ, châu Âu), còn có những nguyên do nội tại khác.
Theo ông Jonathan Pincus, việc hỗ trợ bằng tiền mặt không phải là lý do chính khiến cho tỷ lệ này suy giảm bởi sau khi đại dịch kết thúc người lao động không còn nhận khoản hỗ trợ nữa thì sẽ phải đi làm lại. Tuy nhiên cũng có nhiều người lao động cảm nhận chưa thể quay trở lại thị trường lao động. Cùng với đó còn có sự thiếu linh hoạt trong một số thị trường lao động đặc thù, đó là người lao động không thể “nhảy việc” một cách linh hoạt nhanh chóng được hay chuyển địa điểm sinh sống từ nơi này sang nơi khác hoặc do chi phí sinh hoạt…
Hiện nay chúng ta đang chứng kiến sự thay đổi công nghệ đột phá làm giảm nhu cầu cần lao động con người. Có một số ngành mới thiếu lao động giỏi ở một số kỹ năng nhất định. Đây cũng là vấn đề ở thị trường châu Mỹ, châu Âu, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao thiếu nhân lực lành nghề, kỹ thuật, công nghệ. Còn những ngành truyền thống như bán lẻ, ngân hàng, sản xuất thì tự động hóa đang thay thế dần các vị trí công việc của con người, rồi trí tuệ nhân tạo, robot, công nghệ mới đã thay thế người lao động.
Ông Jonathan Pincus cho rằng, có rất nhiều nguyên do khiến cho tỷ lệ tham gia lao động giảm, đó cũng thể do xu thế toàn cầu hay nguyên do đặc thù của từng nền kinh tế...
Trao đổi thêm về phần trả lời của ông Jonathan Pincus, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cho biết: “nếu Chính phủ có nhiều tiền mặt để chi thì rất dễ dàng. Nhưng vấn đề là các nước có tài khóa khó khăn như Việt Nam nhưng vẫn tìm cách chi bằng tiền mặt và chi khá nhiều. Ở đây, vấn đề đánh giá tỷ trọng, phương pháp hỗ trợ và hiệu quả của các chính sách hỗ trợ phải chăng không chỉ đơn thuần theo Nghị quyết số 43 của Quốc hội và Nghị quyết số 11 của Chính phủ mà phải đặt trong tổng thể các gói giải pháp, chính sách đã áp dụng từ đầu năm 2019 đến nay. Tại sao tỷ lệ khách du lịch nội địa và bán lẻ vẫn tăng? Vì cầu của Việt Nam vẫn tốt, không có chuyện suy giảm cầu ở Việt Nam. Do đó nên chăng phải có đánh giá kỹ lưỡng hơn, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế áp dụng ở Việt Nam như thế nào. Đây là vấn đề về chính sách”, Chủ tịch Quốc hội nói.
Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh cho biết thêm, theo chính sách mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tham mưu, thực tế tổng các khoản chi hỗ trợ bằng tiền mặt của nước ta cho người loa động và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 lên tới khoảng 86.000 tỷ đồng, hỗ trợ trực tiếp cho hơn 56 triệu lượt người lao động. Đây là mức chi không phải là ít so với các nước trên thế giới. Ngoài các khoản chi hỗ trợ trực tiếp, Việt Nam còn có các chính sách hỗ trợ gián tiếp thông qua miễn, giảm thuế.
Về nguyên nhân thiếu nguồn nhân lực sau dịch COVID-19, Thứ trưởng Lê Văn Thanh nêu quan điểm, hiện còn một lượng lớn lao động trở về khu vực nông thôn nhưng chưa kịp quay lại nơi làm việc; hoặc không muốn quay lại nơi làm việc vì đã tìm được việc làm phù hợp ở quê nhà. Cùng với đó, sau khi nghỉ việc, một bộ phận người lao động muốn chuyển sang ngành nghề khác cho thu nhập cao hơn… Để giải quyết tình trạng thiếu hụt người lao động, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang có chính sách đẩy mạnh đào tạo người lao động; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người lao động tìm việc thông qua mạng internet.
Trao đổi với Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh về nguyên nhân khiến người lao động chưa quay trở lại làm việc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ lưu ý Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần phải có cơ sở dữ liệu để đánh giá thực trạng và xu hướng để có chính sách tới đây huy động người lao động trở lại làm việc, vì bộ phận lao động này đã từng tham gia thị trường, có kinh nghiệm, có kỹ năng, được đào tạo rồi mà không thu hút họ quay trở lại được thị trường là không nên.