Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh khẳng định, quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật hết sức chặt chẽ; nếu tuân thủ nghiêm túc, hiện tượng lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của các bộ, ngành, địa phương rất khó xảy ra.
Chú trọng môn học Lịch sử
Trước băn khoăn của đại biểu Quốc hội đối với quy định "môn học Lịch sử là môn lựa chọn, không phải là môn bắt buộc", Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ cho biết, Đảng, Nhà nước có các chủ trương rõ ràng về chương trình giáo dục phổ thông như: Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; Nghị quyết 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; Quyết định 404/QĐ/TTg phê duyệt Đề án đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông...
Theo đó, các quy định thống nhất, giáo dục phổ thông 12 năm gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản (gồm cấp Tiểu học 5 năm và cấp Trung học Cơ sở 4 năm); giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (cấp Trung học Phổ thông 3 năm). Trong đó, giai đoạn giáo dục cơ bản đảm bảo cho học sinh tri thức phổ thông nền tảng, Lịch sử là môn học bắt buộc. Giáo dục định hướng nghề nghiệp cấp Trung học Phổ thông bảo đảm cho học sinh tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng.
Bộ Giáo dục Đào tạo đã ban hành Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT về Chương trình giáo dục phổ thông mới thiết kế theo 2 giai đoạn. Giai đoạn giáo dục cơ bản, các môn Lịch sử, Địa lý là môn học bắt buộc từ lớp 4 lên lớp 9 với tổng số thời lượng 560 tiết, trong đó phân môn Lịch sử chiếm 280 tiết. Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp từ lớp 10 đến lớp 12, Lịch sử được bố trí là một môn học trong Tổ hợp Khoa học xã hội. Như vậy, môn Lịch sử được dạy ở tất cả các trường Trung học Phổ thông, bảo đảm sử dụng hiệu quả đội ngũ giáo viên lịch sử hiện có.
"Một số ý kiến của cử tri cho rằng, môn Lịch sử là môn lựa chọn, dẫn đến việc bỏ hoặc "khai tử" môn học này. Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy", Phó Thủ tướng khẳng định. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo lắng nghe, tiếp thu các ý kiến liên quan đến vấn đề này; tổ chức hội thảo với các cơ quan, đơn vị liên quan, các chuyên gia để thảo luận kỹ lưỡng, đánh giá toàn diện, đề xuất phương án phù hợp, bảo đảm việc học môn Lịch sử và kiến thức lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc cần được tăng cường và chú trọng.
Nhiều khó khăn trong cổ phần hóa, thoái vốn
Liên quan đến quản lý và sắp xếp tài sản công, đặc biệt đất bỏ hoang lãng phí trong thời gian vừa qua, Phó Thủ tướng cho biết, Chính phủ đã có văn bản quy định về vấn đề này như Nghị định 67/2021/NĐ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ đã đưa ra việc rà soát đối với các cơ sở nhà đất của cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Trung ương quản lý mà không có nhu cầu sử dụng, cơ quan, đơn vị đó phải lập hồ sơ đề xuất phương án xử lý và thu hồi, điều chuyển, bán tài sản trên đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển giao về cho địa phương để quản lý và xử lý.
Trong quá trình thực hiện, tổng hợp báo cáo của 9 bộ, cơ quan Trung ương và 45 địa phương, tổng số cơ sở nhà đất khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính là 10.289 cơ sở. Kết quả sắp xếp, xử lý các cơ sở nhà, đất dôi dư như sau: Giữ lại, tiếp tục sử dụng 8.125 cơ sở, thu hồi 117 cơ sở, điều chuyển 410 cơ sở giữa bộ, ngành, địa phương tùy theo nhu cầu xử lý thực tế; bán tài sản đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất 236 cơ sở; 302 cơ sở có phương án giao, chủ yếu chuyển giao cho địa phương xử lý. Hiện nay, khoảng hơn 1.000 cơ sở chưa xử lý. Trong thời gian tới, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành, các địa phương rà soát các cơ sở nhà đất, đặc biệt những khu đất hoang hóa không sử dụng, góp phần thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW của Trung ương trong việc sử dụng hiệu quả đất đai trên cả nước.
Đối với tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn, Phó Thủ tướng cho biết, giai đoạn 2016-2020 đã cổ phần hóa 128 các doanh nghiệp, thoái vốn 340 doanh nghiệp. Đến năm 2020 đã cổ phần hóa 39/128 doanh nghiệp và thoái vốn 106/348 doanh nghiệp, đạt 30% kế hoạch. Giai đoạn từ năm 2021 cho đến tháng 4/2022, theo Quyết định 22/2021/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ, hiện các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn đối với doanh nghiệp chưa hoàn thành theo danh mục đã đưa ra trong giai đoạn 2016-2020. Hiện có nhiều văn bản luật liên quan đến công tác cổ phần hóa, thoái vốn như Nghị định 01/2017/NĐ-CP, Nghị định 126/2017/NĐ-CP, Nghị định 67/2021/NĐ-CP,140/2020/NĐ-CP... nhằm tiếp tục rà soát để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh cổ phần hóa trong thời gian tới.
Tuy nhiên, việc cổ phần hóa không thực hiện theo đúng kế hoạch do giai đoạn vừa qua, nhiều doanh nghiệp lớn cổ phần hóa, thoái vốn có tình hình tài chính, sở hữu đất đai và những vấn đề giải quyết trước khi cổ phần hóa phức tạp. Bên cạnh đó, nhiều quy định mới về cổ phần hóa, thoái vốn được ban hành theo hướng ngày càng chặt chẽ, công khai, minh bạch, bảo đảm tối đa lợi ích của nhà nước nên các doanh nghiệp phải thực hiện lại từ đầu hoặc thực hiện lại một số nội dung, công đoạn của quá trình này. Bên cạnh vấn đề chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong triển khai Luật Đất đai, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, chỉ đến khi thực hiện cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp mới thực hiện sắp xếp lại, xử lý một số vấn đề theo quy định. Việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với UBND các tỉnh, thành phố, bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện lập, phê duyệt phương án sắp xếp, xử lý nhà đất còn nhiều khó khăn...
Khó có lợi ích nhóm, cục bộ
Liên quan đến công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đại biểu Cầm Hà Chung (Phú Thọ) cho biết, hiện có nhiều ý kiến cho rằng “đâu đó vẫn còn lợi ích nhóm, cục bộ, ngành, chạy theo thành tích” trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đề nghị nêu rõ các giải pháp khắc phục tình trạng này trong thời gian tới.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ cho biết, để bảo đảm chất lượng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hiện đã có những quy định chặt chẽ về quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đó, cơ quan soạn thảo phải tổng kết, thi hành pháp luật và đánh giá tác động chính sách, sau đó đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời, trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng, cơ quan soạn thảo phải lấy ý kiến qua việc tổ chức hội thảo; lấy ý kiến thẩm định cuối cùng của Bộ Tư pháp và đưa ra Chính phủ để tổ chức các phiên họp chuyên đề về luật pháp hoặc các phiên họp thường kỳ để xem xét các dự thảo về luật, đặc biệt luật trước khi trình Quốc hội.
“Đây là quy trình hết sức chặt chẽ. Nếu tuân thủ quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật nghiêm túc, hiện tượng lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của các bộ, ngành, địa phương rất khó xảy ra. Một cơ quan xây dựng luật phải trên cơ sở lấy ý kiến đánh giá tác động cũng như tiến trình chặt chẽ. Chính phủ đã đề ra những quy định và có những biện pháp, nhóm giải pháp, đó là cần minh bạch hóa và kiểm soát chặt chẽ quá trình xây dựng luật, xây dựng văn bản”, Phó Thủ tướng khẳng định.
Cùng với việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu của các cơ quan Chính phủ, nhất là vai trò của bộ trưởng, thủ trưởng các cơ quan, Phó Thủ tướng khẳng định vai trò quan trọng của Ban soạn thảo - với nhiều thành phần, nhiều cơ quan cùng tham gia vào xây dựng luật. Song song đó, Chính phủ sẽ nâng cao chất lượng thẩm định, thẩm tra của Bộ Tư pháp và các cơ quan của Quốc hội trong việc thông qua các luật; củng cố, kiện toàn và phát huy hiệu quả tổ chức pháp chế của các bộ, cơ quan ngang bộ.