Cảnh báo các rủi ro khi làm việc tại nước ngoài
Hoạt động di cư quốc tế của công dân Việt Nam ngày càng gia tăng, với hàng triệu lượt người xuất nhập cảnh mỗi năm, hiện diện trên hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, các cơ hội cũng như lợi ích của việc di cư an toàn, hợp pháp chưa được người di cư đánh giá đúng mức. Để việc di cư là một lựa chọn đúng đắn, cần có những định hướng chính sách và sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, sự phối hợp và hợp tác của các bên liên quan, để hỗ trợ phần nào người lao động đi làm việc ở nước ngoài không gặp rủi ro.
Cục Quản lý lao đông ngoài nước vừa đưa ra khuyến cáo dành cho người lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài.
Đối với hình thức di cư ra nước ngoài làm việc, theo Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có các hình thức hợp pháp sau: Thông qua doanh nghiệp hoạt động dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; thông qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài; thông qua doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề; người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức hợp đồng cá nhân.
Hiện nay, hình thức đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài thông qua doanh nghiệp dịch vụ là hình thức phổ biến nhất. Với loại hình này, người lao động cần lưu ý do hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, do đó, chỉ các doanh nghiệp đã được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài mới được phép tuyển chọn, đào tạo, thu tiền và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Hình thức di cư ra nước ngoài làm việc theo hình thức hợp đồng cá nhân. Theo quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân phải đăng ký Hợp đồng cá nhân tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nơi người lao động thường trú và phải đăng ký công dân tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại nước mà người lao động đến làm việc. Có như vậy, người lao động mới được Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước mà người lao động đến làm việc, pháp luật và thông lệ quốc tế trong thời gian làm việc nước ngoài; được tư vấn, hỗ trợ để thực hiện các quyền và hưởng các lợi ích quy định trong Hợp đồng cá nhân.
Việc công dân Việt Nam ra nước ngoài theo các kênh không chính thống, sau đó ở lại cư trú và làm việc bất hợp pháp tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Trước hết là nguy cơ không tìm được việc làm, trở thành người cư trú bất hợp pháp, bị bắt giam, phạt tiền và bị trục xuất nếu bị phát hiện. Hoặc do không có hợp đồng lao động hợp pháp, nên việc làm và thu nhập không bảo đảm, không được hưởng các chế độ bảo hiểm và không được pháp luật nước sở tại bảo hộ. Bên cạnh đó, do không có đầy đủ thông tin về người sử dụng lao động, điều kiện làm việc, sinh hoạt, thiếu hiểu biết về văn hóa, tập quán của nước đến, không được trang bị kỹ năng làm việc, rèn luyện về tay nghề và ngoại ngữ, nên những công dân này dễ trở thành nạn nhân của nạn buôn bán người, bị cưỡng bức lao động, nhưng không được luật pháp nước sở tại thừa nhận và bảo vệ.
Ngoài ra, do công dân tự do đi làm việc ở nước ngoài không đăng ký với các cơ quan chức năng của Việt Nam, không đăng ký công dân tại cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự Việt Nam tại nước mà họ đến làm việc, nên trong trường hợp gặp khó khăn, có phát sinh các vụ việc trong thời gian cư trú và làm việc ở nước ngoài, các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ khó tiếp cận, tư vấn hỗ trợ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại và thông lệ quốc tế.
Để hạn chế tình trạng này, Cục Quản lý lao động ngoài nước đã khuyến cáo các địa phương về tình hình và đề nghị các địa phương cảnh báo cho công dân các rủi ro của việc ra nước ngoài bằng visa du lịch rồi ở lại làm việc bất hợp pháp; đồng thời, đề nghị các Sở Lao động – Thương binh và Xã hội kiểm tra, rà soát, tình hình đi làm việc ở nước ngoài của dân tại địa phương, nhằm phát hiện các tổ chức, cá nhân không có chức năng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, nhưng lại đang môi giới, tuyển chọn, tổ chức đưa người đi trái phép để chuyển cho cơ quan chức năng xử lý theo quy định hiện hành của pháp luật.
Khuyến cáo cụ thể với thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore
Một số thị trường đông lao động Việt Nam, Cục Quản lý lao động ngoài nước cũng đã đưa ra những cảnh báo cụ thể, nhất là các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore.
Với thị trường Nhật Bản, hiện có khoảng 300.000 người Việt Nam đang lưu trú tại Nhật Bản. Trong những năm gần đây, tình trạng thực tập sinh bỏ trốn và lao động bất hợp pháp tại Nhật gia tăng. Do đó, Cục Quản lý lao động ngoài nước thông tin cụ thể về chi phí trước khi đi mà thực tập sinh kỹ năng phải trả cho Công ty phái cử bao gồm: Phí dịch vụ không quá 3.600 USD/hợp đồng 3 năm và phí đào tạo không quá 5.900.000 đồng. Khi đóng các khoản chi phí này cần yêu cầu Công ty phái cử lập Phiếu thu theo đúng quy định.
Pháp luật Nhật Bản nghiêm cấm việc thu tiền ký quỹ và tiền phạt vi phạm hợp đồng. Đồng thời, không cho phép trung gian, môi giới thu phí môi giới của thực tập sinh và bắt buộc đạt trình độ tiếng Nhật (tất cả các thực tập sinh đều phải học tiếng Nhật trước và sau khi sang Nhật Bản, tiếng Nhật vô cùng quan trọng đối với thực tập sinh trong quá trình sinh hoạt và làm việc tại Nhật Bản).
Thị trường Singapore là một trong những thị trường khá “khó tính” trong việc tiếp nhận lao động nước ngoài. Người lao động nước ngoài muốn được cấp visa làm việc tại Singapo phải đáp ứng các yêu cầu cao hơn so với các thị trường khác trong khu vực. Bên cạnh đó, luật của Việt Nam không cho phép các doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở Singapore và các nước khác theo dạng hợp đồng tư vấn dịch vụ, hỗ trợ visa. Do đó, người lao động phải cảnh giác với các thông tin tuyển lao động sang Singapore làm việc. Thời gian qua, có nhiều trang web đưa các thông tin đăng tuyển lao động đi làm việc tại Singapore. Hầu hết các trang web này đều là những trang không chính thống hoặc thông tin được đưa bởi những công ty không có giấy phép đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cấp.
Hiện tại chính quyền Singapore cấp phép khá hạn chế cho lao động nước ngoài, người lao động nước ngoài làm việc hợp pháp tại Singapore là những người được cấp một trong 3 loại visa sau: Work Permit - Giấy phép làm việc cho lao động phổ thông; S Pass - Giấy phép làm việc cho lao động có tay nghề bậc trung và E Pass - Giấy phép làm việc cho các chuyên gia nước ngoài. Hiện nay, chính phủ Singapore không cấp visa cho lao động Việt Nam theo hình thức Work Permit.
Với thị trường Hàn Quốc hiện có khoảng 46.000 lao động đang làm việc tại Hàn Quốc theo ba kênh cung ứng chính là: Chương trình cấp phép việc làm (chương trình EPS), Chương trình thuyền viên làm việc trên tàu đánh cá và Chương trình lao động kỹ thuật cao (visa E7). Bên cạnh đó, từ năm 2018 Chính phủ đồng ý cho thí điểm đưa lao động thời vụ 3 tháng sang Hàn Quốc làm nông nghiệp thông qua hợp tác giữa hai địa phương hai nước.
Trong đó, chương trình EPS là chương trình quan trọng trong quan hệ hợp tác lao động giữa Việt Nam và Hàn Quốc, được triển khai thực hiện từ năm 2005. Người lao động chỉ có thể tham gia vào một trong các Chương trình trên, không thể đi bằng con đường nào khác. Đặc biệt lưu ý, công dân sang Hàn Quốc bằng hình thức visa nào (thể hiện mục đích chuyến đi) thì chỉ có thể xin tư cách lưu trú bằng loại visa đó mà không thể chuyển đổi sang loại hình visa khác, ví dụ xin visa du lịch thì không thể chuyển thành visa lao động sau khi sang Hàn Quốc.