Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh sinh ngày 20/7/1934 tại thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sống ở Hà Nội, là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông còn có bút danh Vũ Ngàn Chi. Sinh trưởng trong một gia đình tiểu thị dân, Phạm Ngọc Cảnh được cha mẹ cho ăn học tử tế. Cách mạng tháng Tám thành công, Phạm Ngọc Cảnh mới 12 tuổi đã tình nguyện đứng vào hàng ngũ Vệ quốc quân, làm liên lạc viên, rồi tham gia vào đội tuyên truyền văn nghệ của trung đoàn 103 Hà Tĩnh, trở thành diễn viên kịch nói. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông ở đoàn Văn công quân khu Trị Thiên, từng biểu diễn giữa thành phố Huế trong chiến dịch Mậu Thân. Về sau ông là diễn viên trụ cột của đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị. Cuộc đời vẫn có những nẻo đi bất ngờ. Làm diễn viên nhưng ông làm thơ và đam mê với thơ. Vì vậy ông được điều về tạp chí Văn nghệ quân đội làm biên tập thơ, rồi cán bộ sáng tác của tạp chí trong 20 năm trước khi rời quân ngũ về hưu. Ngoài sáng tác thơ, ông còn viết kịch phim, đọc lời bình, dẫn các chương trình thơ trên sóng phát thanh, truyền hình và đóng một số vai phụ trong các phim.
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh từng tâm sự rằng với ông, diễn viên kịch là một nghề cao quý nên lần gặp ông gần nhất, ông vẫn kể về những ký ức hồi ông đóng vai Trung úy Phương trong vở kịch "Nổi gió" của tác giả Đào Hồng Cẩm. Có những đêm, trong ánh đèn sân khấu, ông như được sống một cuộc đời khác, khóc cười cùng nhân vật, hào sảng cùng nhân vật. Trung úy Phương là một nhân vật đặc biệt, người diễn phải sống nhiều tâm trạng, nhiều diễn biến tâm lý vì nhân vật là người bên kia giới tuyến. Phạm Ngọc Cảnh vào vai đạt đến nỗi, thời ấy, có nhiều người gặp ông ngoài đời vẫn gọi ông là "Trung úy Phương". Thậm chí, bộ đội về địa phương hoạt động, một số người đã được giới thiệu đến ở tại gia đình ông nhưng khi thấy tấm ảnh chụp ông trong vai diễn"Trung úy Phương", họ bèn... chuyển sang nhà khác, vì nghĩ lầm là gia đình có người làm cho địch ở bên kia giới tuyến.
Tuy nhiên, đối với ông, thơ ca mới là cả một chân trời bí ẩn và cao vọng mà ông theo đuổi. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã đi tìm nguồn thi ca đầy quyến rũ với tập thơ đầu tiên "Gió vào trận bão". Ông từng nghĩ rằng, theo đuổi thi ca có nghĩa là một hành trình không có ga dừng, không có trạm nghỉ. Sau tập "Đêm Quảng Trị" (1971), ông đã rời hẳn ánh đèn sân khấu từ chiến trường miền Nam về làm biên tập viên tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội và toàn tâm toàn ý cho thơ. Liên tiếp sau đó, ông được biết đến với những vần thơ trữ tình nổi tiếng “Ngọn lửa dòng sông”, “Lối vào phía Bắc”, “Đất hai vùng”, “Hương lặng”, “Nhặt lá”... Ông tâm sự: "Khi tôi buộc phải vứt bỏ hòn son, hòn phấn để theo thơ thì có nghĩa là thơ ca đã mê hoặc tôi. Lúc vui sướng tôi tìm đến thơ và lúc đau khổ tôi cũng tìm đến thơ".
Ông đã có những bài thơ nổi tiếng, để lại trong lòng người những dư âm về một thời hoa lửa, chẳng hạn như bài thơ "Lý ngựa ô ở hai vùng đất" đã ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của người lính trận. Bài thơ cũng đã gieo vào lòng những độc giả cùng thế hệ ông niềm vui và niềm tin chiến thắng: "Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu/ Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi/ Đường đánh giặc chảy xuôi về bến bãi/ Lý ngựa ô em hát đợi bên cầu/... Suốt miền Trung sông suối dày tơ nhện/ Suốt miền Trung núi choài ra biển/ Nên gập gềnh câu lý ngựa ô qua/ Anh đa tình nên cứ muốn lần theo/ Xấu hổ gì đâu mà anh giấu giếm/ Đêm đánh giặc mịt mù cao điểm/ Vạch lá rừng nhìn xuống quê em/... Hay vì làng anh ở ven sông/ Những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng/ Đã hát quen lý ngựa ô rồi/ Khen câu miền Trung qua truông dài phá rộng/ Móng gõ mặt thời gian gõ trống/ Khen câu miền Nam như giục như mời/ Ngựa tung bờm bay qua biển lúa/ Ngựa ghìm cương nơi sông xoè chín cửa/ Tiếng hí chào xa khơi/... Em muốn về hội Gióng với anh không/ Để anh khoe với họ hàng câu lý ấy/ Em muốn làm dâu thì em ở lại/ Lý ngựa ô xin cưới sắp về rồi/ Đồng đội của anh đã chọn mùa thắng giặc/ Cũng sắp về chia vui".
Chính bài thơ này cũng là cơ duyên gắn bó ông với người phụ nữ có cái tên đẹp: Giáng Hương. Trong một lần đến nói chuyện tại lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho các Hội viên Hội Văn học nghệ thuật các tỉnh tại Trường Viết văn Nguyễn Du, cô gái xứ Thanh ấy đã mê tài thơ và mối lương duyên đã đưa họ lại gần nhau. Người con gái ấy một lòng chờ đợi ông mấy chục năm. Khi người vợ hiền của nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh bị tai biến nằm liệt giường 17 năm, một tay ông chăm sóc. Sau khi vợ ông qua đời, Giáng Hương chính thức về với ông và sau đó lại chăm sóc ông suốt nhiều năm bị tai biến. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã viết thơ tặng bà: “Mình thương nhau/ đất quặn lòng cho cây lá đắng/ bát canh múc đầu mường đầu bản/ cuối sông bát đũa/ rùng mình/ Cái phận hẩm hiu vùi trong hốc đá/ Nuôi chín mầm hoang dã/ đầu nguồn sông Mã/ ngoi lên/ Anh ăn canh đắng nhà mình/ Quên hết trần gian canh đắng lạ/ ăn mà tin/ Khi thương khi giận/ Khi chối khi mời/ Khi cơm có thất thường thác đổ/ Khi nước mắt đắng vào huyệt mộ/ bát canh nghèo/ em nuôi…”.
Sinh thời Phạm Ngọc Cảnh từng đánh giá mình, anh không thỏa mãn với những gì mình đã làm được dù đã làm rất, rất nhiều. Anh tự thú với mẹ: “Mẹ cõng con đi men theo cầu sông Cụt / Rồi một đời hun hút trông theo/ Vô tích sự thằng con trai mẹ/ Năm Tuất lùi xa. Năm tuất lại về/ Vô tích sự thằng con trai mẹ/ Găng cổ hát khắp rộng dài sông bể/ Câu dặm buồn năm Tuất ai nghe?”. Sự không tự bằng lòng với mình khi mẹ đã mang nặng đẻ đau để sinh ra mình mà mình còn phí phạm cuộc sống ấy đã thúc giục ông sáng tạo, cống hiến nhiều hơn, cũng nhắc nhở, giục giã chúng ta sống gấp hơn, tốt hơn nữa.
Đối với tôi cũng như với những người yêu quý, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, thì hình ảnh của ông mãi còn trong ký ức, một nhà thơ tốt bụng, đầy sự gàn và một đời đắm đuối với thi ca… Với ông, “Thác là thể phách, còn là tinh anh”…
Trần Hoàng Thiên Kim