Kỳ 3: Hậu họa từ cuộc chiến
Hơn 33 năm qua, vợ chồng người cựu thanh niên xung phong không ngẩng mặt lên được, phần vì nỗi đau da cam luôn hành hạ và ám ảnh, phần vì quá khổ với miếng cơm manh áo. Vợ chồng người cựu thanh niên xung phong ấy là Phạm Văn Án và Nguyễn Thị Tiều, con gái tật nguyền của họ là Phạm Như Ý ở xã Sơn Bình, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Phận đời nghiệt ngã
Vượt hơn 70 km từ thành phố Vũng Tàu, qua cánh rừng cao su ngút ngàn già cỗi, hỏi những người đi đường, họ chỉ: “Nhà ông Án mãi tận cuối lô cao su ấy, rồi rẽ vào rừng tràm mới tới”. Khó có thể hình dung căn nhà của cặp vợ chồng cựu thanh niên xung phong thời hỏa tuyến cách đây 46 năm về trước. Căn nhà tình nghĩa 2 gian đã xuống cấp bong hồ ẩn dưới lúp xúp rừng tre, điều cằn cỗi. Ông Phạm Văn Án đang vác cuốc còn bà Nguyễn Thị Tiều tay cầm chậu thay tã cho con gái. Ông Án ngước nhìn chúng tôi bằng đôi mắt đục mờ ngờ ngợ.
Em Phạm Như Ý quằn quại dưới đất. |
Chúng tôi mở đầu câu chuyện bằng sự chỉ dẫn của Hội nạn nhân chất độc da cam/điôxin tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nói chưa dứt câu, bà Tiều đã ôm mặt khóc. Nước mắt lưng tròng, ông Án nhìn vợ và bắt đầu câu chuyện.
Năm 1967, ông rời quê hương Thái Bình xung phong làm dân công hỏa tuyến. Ông không còn nhớ phiên hiệu đơn vị nữa, nhưng những lần ông cùng đồng đội hành quân trong rừng, uống nước suối, ăn lá tàu bay thay cơm thì không thể nào quên được. “Ngày ấy nào ai biết chất độc da cam là gì, cả đội thanh niên xung phong gồm 18 người đều như mình cả. Đói ăn cơm vắt với lá tàu bay, khát uống nước suối rừng”. Giọng ông Án chùng xuống “Không ngờ những ngày ở chiến trường nghiệt ngã ấy lại để lại hậu họa về sau”.
Cũng thời gian ấy, cô Nguyễn Thị Tiều tạm biệt miền trung du Vĩnh Phú vào tuyến lửa. Những đêm tải đạn vượt rừng, uống nước suối và ăn lá tàu bay không thể tránh khỏi. Hai người gặp nhau trong một lần tải đạn. Năm 1976 hai người rời quân ngũ trở về địa phương. Cuối năm 1977, họ cưới nhau và tình nguyện vào Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu sinh sống theo diện đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Ông Án nhấp ngụm nước trà đặc quánh nghẹn ngào nói: “Chẳng giấu gì anh, vợ chồng tui sinh 3 lần nhưng còn sống 2. Đứa con trai đầu bị thiểu năng trí tuệ, đứa này sinh năm 1980. Khi mới sinh ra nó trắng như cục bột. Vợ chồng mừng lắm nghĩ bụng, đứa đầu đần độn trời cho mình đứa sau. Nhưng không, từ khi mẹ nó sinh ra đến ngày thứ 43, đột nhiên khóc thét lên rồi co giật. Tui vội vàng bồng con đến bệnh xá cấp cứu. Vợ tui chết lịm khi nghe bác sĩ kết luận cháu khả năng bị di chứng chất độc da cam điôxin, tui bồng con về nuốt nước mắt vào trong, muốn khóc mà không khóc được. Lúc ấy trong đầu tui hiện lên những cánh rừng già bàng bạc, những đám cháy rừng tại Trường Sơn, những đồng đội cùng đi với tôi, ai còn ai mất, rồi tui lại nghĩ đến con. Tui động viên vợ nén lòng sinh thêm đứa nữa, biết đâu ông trời thương cho lành lặn. Bao hy vọng dồn vào đứa thứ 3 nhưng rồi cuối cùng đều tắt ngấm. Đứa thứ 3 là một khúc thịt không đầu đỏ hỏn. Bà ấy ngất ngay trên bàn đẻ. Ngày ấy đâu có phương tiện hiện đại siêu âm như bây giờ”. Ông Án lấy vạt áo lau vội những giọt nước mắt tức tưởi, bà Tiều phân trần thêm “Vợ chồng tôi đặt con là Phạm Thị Như Ý, vì lúc mới sinh nó trắng trẻo bụ bẫm đúng như tôi mơ ước. Bây giờ nó sống thực vật, mọi ăn uống tắm rửa vệ sinh đều có người giúp đỡ. Biết là nhiều gia đình cũng có hoàn cảnh như mình, nhưng tôi buồn lắm. Bây giờ thì chẳng hi vọng gì nữa, ông bà như cành củi khô dựa vào nhau mà sống. Tôi lo, nếu tôi chết trước, ai là người lo cho nó”.
Ước nguyện cuối đời
Bà Tiều gạt nước mắt dẫn chúng tôi xuống chỗ em Ý nằm. Căn phòng dành riêng cho em là 4 bức tường hầm hập nóng. Giữa phòng kê chiếc giường, em Ý nằm nửa người phần trên vào chiếu, từ mông trở xuống nằm trên nan giường. Bà Tiều cho biết sở dĩ chỉ nằm một nửa chiếu như thế vì em Ý đi đại, tiểu tiện không kiểm soát được. Bà phải để chiếc chậu dưới gầm giường để tiện vệ sinh. Ban ngày ông bà đi làm rẫy thuê, phải trải chiếu xuống đất để em Ý nằm, nếu không mỗi lần lên cơn co giật là em lăn xuống đất.
Vợ chồng ông Án, bà Tiều đau khổ kể chuyện con gái mình. |
Chiếc giường sờn cũ do em Ý cừa vào mỗi lần lên cơn. Mỗi vết cứa ấy, nhiều lần dính máu xám kịt. Bà Tiều chỉ tay về phía góc nhà: “Cực lắm chú ạ. Có bữa tôi đi làm về, thấy con đang ngậm một cục đất trong mồm mắt trợn ngược. Nhìn con mà lòng đau như xát muối. Nhiều lúc nghĩ ông trời bắt tội đành chịu chứ chẳng biết kêu ai”. Bà Tiều nói.
- Chế độ của em Ý hiện nay như thế nào thưa bà?
- Chế độ của Nhà nước theo qui định được 780.000 đồng/tháng. Cả hai chúng tôi đều có chế độ theo diện nhiễm chất độc da cam trực tiếp. Tất cả đều dồn vào chạy chữa cho con. Bây giờ thì tôi đã kiệt sức. Ước nguyện cuối đời, chỉ mong khi tôi chết đi, con tôi được đưa đến trại chăm sóc tập trung và được chăm sóc như tôi đã từng chăm sóc nó”. Bà Tiều nhìn ra phía đồi tràm trước mặt. Trong sâu thẳm tấm lòng của người mẹ, có lẽ hơn lúc nào hết bà đang ước nguyện một phép nhiệm màu cho con gái Như Ý của bà lành lặn như bao người khác, dẫu ước mơ ấy chẳng bao giờ trở thành hiện thực.
Trời ngả về chiều, những đám mây vần vũ báo hiệu sắp có cơn giông. Ông Án bà Tiều tiễn chân chúng tôi ra tận vạt sắn đầu đường. Nước mắt ông Án lưng tròng, còn bà Tiều nhìn theo giấu giọt nước mắt sau cái nón lá rách tả tơi.
Bài và ảnh: Mai Thắng
Kỳ cuối: Thảm họa da cam