Ngoài chịu tác động của các loại hình thiên tai có tính thường xuyên, miền Trung là khu vực có nguy cơ cao về nước dâng do bão mạnh, siêu bão; nước dâng do biến đổi khí hậu trong tương lai, động đất, sóng thần. Mới đây nhất, vào cuối tháng 11/2021, mưa lũ đã làm hàng chục người chết và mất tích tại khu vực này.
Để tìm hiểu rõ hơn về thực trạng, giải pháp trong Chiến lược phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 17/3/2021 tại Quyết định số 379/QĐ-TTg đối với công tác phòng chống thiên tai tại khu vực này, cũng như các giải pháp trước mắt và lâu dài của Tổng cục phòng, chống thiên tai đề ra, phóng viên TTXVN đã có cuộc phỏng vấn ông Tăng Quốc Chính, Vụ trưởng Vụ kiểm soát an toàn thiên tai, Tổng cục phòng, chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về những nội dung liên quan. Sau đây là nội dung phỏng vấn.
Thưa ông Tăng Quốc Chính, trong Chiến lược phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 mà Thủ tướng ban hành có nêu các giải pháp phòng, chống thiên tai cho khu vực duyên hải miền Trung. Xin ông cho biết cụ thể những giải pháp đó là gì?
Theo quyết định 379/QĐ-TTg ngày 17/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Quốc gia phòng, chống thiên tai đã xác định nhiệm vụ và giải pháp cho vùng duyên hải miền Trung. Cụ thể, khu vực này cần chủ động phòng, tránh, thích nghi với thiên tai, trọng tâm là chủ động phòng, chống bão, lũ, ngập lụt, hạn hán, sạt lở đất và sạt lở bờ sông, bờ biển. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng dự báo thiên tai, đặc biệt là dự báo sớm để chủ động ứng phó, nhất là đối với bão, mưa, lũ, ngập lụt, hạn hán.
Khu vực duyên hải miền Trung cần xây dựng, củng cố hệ thống cảnh báo đa thiên tai, theo dõi và giám sát mưa, lũ, sạt lở đất, ngập lụt kết hợp với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, ưu tiên hệ thống quan trắc kết hợp cảnh báo mưa,… hướng dẫn xây dựng nhà ở, công trình kết hợp sơ tán dân đảm bảo an toàn trước thiên tai, nhất là bão, lũ, ngập lụt; thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo, gia đình chính sách xây dựng nhà ở phòng tránh bão, lụt; củng cố, nâng cấp bảo đảm an toàn đập, hồ chứa nước, đê biển, đê cửa sông, công trình thủy lợi, phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển; vận hành hiệu quả hồ chứa nước đảm bảo an toàn công trình, vùng hạ du, đồng thời phục vụ phòng, chống lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, nhất là các hồ Tả Trạch, Ba Hạ,…
Cùng với đó, khu vực này cần làm tốt công tác phân vùng rủi ro, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, nhất là những nơi có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất chi tiết đến cấp xã, cập nhật bản đồ ngập lụt hạ du các hồ chứa ứng với các kịch bản xả lũ và vỡ đập, bản đồ ngập lụt do bão mạnh, siêu bão, bản đồ ngập lụt các lưu vực sông; xây dựng công trình phòng, chống lũ quét, sạt lở đất tại các khu vực trọng điểm, xung yếu. Khu vực này chủ động di dời dân cư sinh sống tại khu vực ven sông, suối, sườn đồi núi, ven biển có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở, khu vực thấp trũng bị ngập sâu; tổ chức xây dựng, rà soát, diễn tập, triển khai phương án phòng, chống thiên tai, đặc biệt là sơ tán dân cư khẩn cấp và khắc phục hậu quả khi xảy ra tình huống nguy hiểm tại những nơi chưa thể di dời theo phương châm 4 tại chỗ.
Ngoài ra, tại khu vực duyên hải miền Trung, cần quản lý chặt chẽ việc xây dựng nhà ở, cơ sở hạ tầng, nhất là khu dân cư, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng ven sông, ven biển, công trình giao thông; khắc phục tình trạng xây dựng nhà ở, công trình tại khu vực nguy cơ sạt lở, cản trở dòng chảy, lấn chiếm lòng sông, suối, bạt sườn dốc để xây dựng công trình, nhà ở làm gia tăng rủi ro thiên tai. Mở rộng khẩu độ thoát lũ đối với các công trình giao thông, khắc phục bồi lấp cửa sông, cải tạo lòng dẫn, kết hợp khơi thông luồng lạch đảm bảo không gian thoát lũ, tránh làm gia tăng ngập lụt.
Khu vực duyên hải miền Trung tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao chất lượng rừng, nhất là rừng tự nhiên, rừng ngập mặn cửa sông, ven biển, phòng hộ đầu nguồn; bảo tồn cồn cát tự nhiên ven biển; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc thù thiên tai, nhất là khu vực thường xuyên bị ngập lụt, hạn hán.
Từ năm 2016 đến nay, khu vực miền Trung và Tây Nguyên liên tiếp xảy ra nhiều đợt mưa lũ lớn, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Để giảm thiểu thiệt hại, tăng khả năng chống chịu của công trình cơ sở hạ tầng, nhất là công trình phòng, chống lũ, theo ông những giải pháp cấp bách và lâu dài cho khu vực này là gì?
Tại khu vực duyên hải miền Trung, bão, áp thấp nhiệt đới đổ bộ nhiều nhất vào tháng 9-11 (chiếm 70%), ảnh hưởng sớm nhất vào cuối tháng 3, muộn nhất là tháng 1 năm sau. Qua các trận lũ từ 2016 đến nay cho thấy, mức độ ngập lụt ngày càng tăng, có nơi ngập sâu tới 4-5m, trong nhiều ngày, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống tại khu vực này.
Trước tình hình trên, để tăng khả năng chống chịu của công trình cơ sở hạ tầng, nhất là công trình phòng chống lũ, thì cần thực hiện những giải pháp cấp bách và lâu dài.
Trước mắt, khu vực duyên hải miền Trung cần tập trung nguồn lực khắc phục cấp bách hậu quả mưa lũ, khẩn trương ổn định dân cư vùng ảnh hưởng thiên tai, nhất là các hộ dân phải di dời; sửa chữa khẩn cấp công trình đê điều, hồ đập, vị trí trọng điểm xung yếu để sẵn sàng chống chịu khi mưa lũ lớn xảy ra; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, thông tin, truyền thông về thời tiết, thiên tai nhất là mưa lớn theo hình thức nhà nước và nhân dân cùng làm.
Khu vực duyên hải miền Trung tăng cường công tác quan trắc chuyên ngành, theo dõi, giám sát cung cấp thông tin phòng, chống thiên tai; quản lý tàu thuyền và các hoạt động trên biển, trong đó tập trung quản lý việc ra khơi, kỹ thuật neo đậu đảm bảo an toàn tại các khu tránh trú và quản lý các tàu vận tải, tàu vãng lai khi có bão, áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông.
Khu vực duyên hải miền Trung tăng cường kiện toàn, nâng cao năng lực cơ quan phòng, chống thiên tai các cấp theo hướng chuyên trách trên cơ sở sắp xếp lại bộ máy, không làm tăng biên chế, đồng thời củng cố trung tâm chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống thiên tai của Trung ương, vùng và cấp tỉnh; điều chỉnh, bổ sung một số cơ chế chính sách văn bản quy phạm pháp luật để nâng cao năng lực cơ quan phòng, chống thiên tai, huy động sự tham gia của cộng đồng, phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, lồng ghép công tác phòng, chống thiên tai trong các hoạt động của xã hội, hình thức khen thưởng, kỷ luật phù hợp...
Về lâu dài, khu vực này cần tổ chức lại bộ máy cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tham mưu chỉ huy ứng phó đảm bảo thống nhất, không tăng biên chế và theo hướng chuyên trách; chú trọng đào tạo cán bộ làm công tác phòng, chống thiên tai theo hướng chuyên trách để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công tác phòng, chống thiên tai các cấp; đánh giá toàn diện về nguyên nhân gây ngập lụt nghiêm trọng và đề xuất các giải pháp căn bản, lâu dài theo hướng quản lý lũ tổng hợp.
Khu vực duyên hải miền Trung chú trọng rà soát, cập nhật quy hoạch, kế hoạch, phương án phù hợp với diễn biến mưa lũ, thiên tai trên địa bàn; tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền cơ sở và cộng đồng; tăng cường đầu tư khu neo đậu tàu thuyền trú tránh bão theo chương trình xây dựng các khu neo đậu cho tàu, thuyền tránh, trú bão đến năm 2020; đẩy mạnh xã hội hóa trong đầu tư, quản lý khu neo đậu kết hợp dịch vụ hậu cần nghề cá; đầu tư, củng cố, nâng cấp các hồ chứa thủy lợi, thủy điện, hệ thống đê cửa sông, bảo vệ bờ biển.
Bên cạnh đó, khu vực này cần lưu ý đến hệ thống cảnh báo thiên tai đa mục tiêu; đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị xây dựng hệ thống chỉ đạo vận hành hồ chứa, liên hồ chứa theo thời gian thực để nâng cao năng lực phối hợp vận hành hồ chứa giảm lũ, trong đó có tình huống khẩn cấp và sử dụng hiệu quả nguồn nước; quy hoạch không gian thoát lũ các lưu vực sông; cải tạo, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng: cầu, cống, đường giao thông đảm bảo khẩu độ thoát lũ kết hợp đường cứu hộ, cứu nạn; hỗ trợ xây dựng nhà ở vượt lũ cho dân đối với khu vực thường xuyên bị ngập lũ.
Ngoài ra, khu vực duyên hải miền Trung cần rà soát, điều chỉnh quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông theo hướng tăng cường quy chế phối hợp giữa Ban Chỉ huy các địa phương trong lưu vực; tăng cường vai trò của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương; tiếp tục đầu tư cho quản lý và bảo vệ nghiêm ngặt rừng phòng hộ. Đồng thời tăng đầu tư các loại rừng khác, đảm bảo độ che phủ cũng như khả năng điều tiết của rừng phòng hộ; ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu trong công tác phòng, chống thiên tai tại khu vực này.
Xin trân trọng cảm ơn ông!