Phát biểu tại diễn đàn, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh cho biết, Việt Nam là quốc gia biển với gần 50% dân số sinh sống ở vùng duyên hải, 28 tỉnh, thành ven biển, kinh tế biển đóng góp 60% tổng GDP. Các chủ truơng chính sách lớn về biển và phát triển bền vững kinh tế biển đã được Trung ương xem xét, ban hành. Năm 2007, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã ban hành “Chiến lược biển Việt Nam”. Sau 10 năm thực hiện Chiến lược biển Việt Nam, Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khoá XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
“Quá trình triển khai Nghị quyết 36 đã đạt được những thành tựu, nhận thức của toàn hệ thống chính trị và người dân về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với sự phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng cao rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững, công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển được chủ động triển khai toàn diện. Kinh tế biển, các vùng biển đang trở thành động lực phát triển của đất nước…”, Trưởng Ban Kinh tế trung ương Trần Tuấn Anh đánh giá.
Tuy nhiên, theo ông Trần Tuấn Anh, quy mô kinh tế biển còn khiêm tốn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, hệ thống cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế biển, các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo thiên tai, cứu hộ cứu nạn… ven biển còn nhỏ, trang bị thô sơ, năng lực còn yếu, môi trường biển biến đổi theo chiều hướng xấu, đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thuỷ sản đang giảm sút nghiêm trọng thiếu bền vững.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khách quan từ diễn biến cực đoan trong biến đổi khí hậu toàn cầu, song chủ yếu đến từ nguyên nhân chủ quan, do tổ chức bộ máy quản lý về phát triển bền vững kinh tế biển còn bất cập, nguồn lực thực hiện chưa được bố trí phù hợp, các phương pháp quản lý mới, tiên tiến còn chậm được áp dụng.
Để quản lý và phát triển tốt nguồn tài nguyên biển, ông Trần Tuấn Anh cho rằng, cần đánh giá kết quả và hạn chế trong phát triển kinh tế biển, trong đó có 6 ngành kinh tế biển chủ đạo là Du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và tài nguôn khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.
“Các địa phương cần tổng hợp phân tích những thuận lợi, hạn chế khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết 36, kiến nghị và đề xuất với Trung ương những giải pháp thực hiện có hiệu lực, hiệu quả Nghị quyết số 36-NQ/TW trong thời gian tới”, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Minh Ngân đánh giá, Nghị quyết số 36-NQ/TW đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong xu thế phát triển chung toàn cầu. Để phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, thời gian tới, Bộ sẽ kiến tạo môi trường chính sách, pháp lý cho nền kinh tế biển bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế biển, thúc đẩy thu hút và huy động được các nguồn lực xã hội cho phát triển các ngành kinh tế biển mới: như điện gió ngoài khơi, nuôi biển xa bờ; tăng cường điều tra cơ bản tập trung thăm dò, tìm kiếm các loại khoáng sản, kim loại chiến lược.
Đồng thời, khẩn trương triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển và hải đảo, phát triển kinh tế biển, trọng tâm là Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch không gian biển quốc gia; Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia; Quy hoạch các khu vực biển, đảo cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Đặc biệt, đầu tư phát triển hạ tầng kết nối các vùng kinh tế động lực ven biển, phát triển hệ thống giao thông hàng hải các-bon thấp và bền vững, các cảng thông minh và thích ứng với khí hậu cũng như các cơ sở hạ tầng biển và ven biển khác, quy hoạch sử dụng đất đô thị, công nghiệp, vùng bờ và biển để phát triển kinh tế bền vững. Phát triển du lịch dựa vào thiên nhiên và các hoạt động du lịch dựa vào bảo vệ và bảo tồn hệ sinh thái biển và ven biển.
Bộ Tài nguyên và môi trường khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực; thực hiện các dự án thí điểm để tiếp cận tất cả các nguồn năng lượng tái tạo biển, bao gồm năng lượng gió, sóng, thủy triều, dòng chảy, nhiệt và năng lượng mặt trời, nhằm phát huy tối đa tiềm năng về năng lượng tái tạo biển của Việt Nam. Tăng cường hợp tác về quản lý, giám sát và giải quyết ô nhiễm môi trường các vùng biển; giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển từ các hoạt động trên đất liền cũng như ô nhiễm từ tàu và ngư cụ thải bỏ; thúc đẩy bảo vệ đa dạng sinh học, các hệ sinh thái và rạn san hô biển phù hợp với xu thế quốc tế.
“Việt Nam tích cực tham gia các sáng kiến, hành động toàn cầu để giải quyết ô nhiễm nhựa đại dương phù hợp với Nghị quyết của Hội đồng Môi trường Liên hợp quốc, cũng như tham gia hiệu quả vào việc giải quyết các thách thức toàn cầu về môi trường biển và khí hậu, để tận dụng các cơ hội từ xu thế thời đại về giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo”, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh.
Là tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, có bờ biển dài 189 km, thuận lợi cho nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, phát triển dịch vụ du lịch và cảng biển, ông Lê Tấn Hổ, Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Phú Yên cho biết, quá trình thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW của địa phương đã đạt được nhiều kết quả, tuy nhiên còn gặp một số khó khăn, hạn chế như tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển của tỉnh chưa được khai thác hiệu quả. Cùng với đó, hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển còn thiếu và yếu, du lịch biển chưa có những sản phẩm đặc trưng, nguồn nhân lực còn hạn chế, thu hút đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng…
Để tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, tỉnh Phú Yên sẽ có những chính sách để tập trung thu hút, khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia các ngành kinh tế biển như: Năng lượng tái tạo, nuôi trồng thủy, hải sản quy mô công nghiệp, du lịch biển… Định hướng phát triển kinh tế biển xanh, bền vững, thân thiện với môi trường cũng như bảo vệ, phát triển cộng đồng dân cư địa phương.
Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện quy hoạch tỉnh nhằm thống nhất quy hoạch các địa phương ven biển, quy hoạch khu dân cư, đô thị, khu kinh tế, khu dịch vụ ven biển; phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng trong hoạt động nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đầu tư công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nuôi trồng thủy sản xa bờ. Đồng thời, đầu tư, khai thác có hiệu quả cảnh quan tự nhiên như vũng, vịnh bãi biển, đảo, cụm đảo để khai thác đa dạng loại hình dịch vụ du lịch; chú trọng bảo vệ các hệ sinh thái biển, đảo, khoanh vùng, bảo vệ các khu, hệ sinh thái san hô, cỏ biển trên vùng biển của tỉnh, từng bước tiếp cận, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ trong cảnh báo, giám sát động đất, sóng thần, bão lũ…
Còn ông Trần Đình Luân, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuỷ sản, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn kiến nghị, Chính phủ sớm phê duyệt Quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ làm căn cứ để lập các quy hoạch ngành quốc gia có liên quan đến biển.
"Các nghiên cứu, điều tra cơ bản về biển tốn nhiều kinh phí nên đề nghị được bố trí theo dòng vốn khác với vốn bố trí điều tra cơ bản thường xuyên, hàng năm cho các Bộ. Ưu tiên nguồn lực bố trí thực hiện các dự án củng cố, nâng cấp, duy tu hệ thống đê biển đảm bảo an toàn chống lũ, bão thiết kế và đầu tư các khu neo đậu tránh tránh trú bão, cảng cá, đặc biệt là tuyến biển, đảo phục vụ khai thác thủy sản trên biển", đại diện Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết.