Sân bay Tân Sơn Nhất hiện đã quá tải. Ảnh: Hoàng Hải/TTXVN |
Theo Cục Hàng không Việt Nam, thực tế khai thác tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đã vượt quá khả năng đáp ứng của các công trình hiện có tại Cảng.
Trong các năm tới, nhu cầu tăng trưởng của Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất vẫn đạt trung bình từ 15%/năm trở lên, cho đến khi Cảng hàng không quốc tế Long Thành đi vào khai thác vào năm 2025, nhu cầu khai thác sẽ ở mức khoảng 50 - 60 triệu hành khách.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng, Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo đơn vị tư vấn nghiên cứu hoàn thiện các phương án điều chỉnh quy hoạch (trong đó có các phương án mở rộng Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất về phía Bắc) bao gồm ba phương án 1, 2 và 3.
Dựa trên các phương án của đơn vị tư vấn, Cục Hàng không đề xuất lựa chọn phương án 3 làm phương án điều chỉnh quy hoạch chi tiết Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Theo đó, phương án này sẽ giữ nguyên hệ thống đường hạ cất cánh (HCC), cải tiến hệ thống đường lăn: xây mới bổ sung 1 đường lăn song song nằm giữa đường HCC 25L/07R và đường lăn song song E6; xây dựng các đường lăn kết nối đồng bộ đường lăn song song và đường cất hạ cánh; xây dựng 2 đường lăn thoát nhanh nằm giữa 2 đường HCC 25R/07L và 25L/07R.
Đối với hệ thống sân đỗ tàu bay, phương án 3 đề cập tới việc mở rộng sân đỗ tàu bay dùng chung dân dụng, quân sự tại khu đất 19,97 ha (đất vẫn do Bộ Quốc phòng quản lý) để khai thác hàng không dân dụng. Ngoài ra, phương án này cũng mở rộng sân đỗ tàu bay trước nhà ga hành khách lưỡng dụng T3, nâng tổng số vị trí đỗ lên 82 vị trí khai thác.
Đối với quy hoạch khu hàng không dân dụng, phương án này lựa chọn điều chỉnh sẽ xây mới Nhà ga hành khách lưỡng dụng T3 và T4 với công suất thiết kế đạt 10 triệu hành khách/năm, nâng tổng công suất thiết kế của Nhà ga hành khách Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất lên mức 45 – 48 triệu hành khách/năm.
Phương án này cũng lựa chọn xây mới khu dịch vụ kỹ thuật, hangar, sân đỗ tàu bay trước hangar trên khu đất 30 ha phía Bắc của Cảng, ngoài ra xây mới khu dịch vụ kỹ thuật gồm khu bảo dưỡng sửa chữa thiết bị máy bay, kho hàng, khu chế biết suất ăn, khu tập kết… tại khu đất 10 ha phía Đông Nam của Cảng.
Đối với quy hoạch giao thông, đường trục ra vào sân bay, ngoài các đường kết nỗi sẵn có, phương án 3 tập trung cải tạo, mở rộng đường 18E nối từ đường Cộng Hòa vào nhà ga hành khách T4, đồng thời cải tạo, mở rộng đường Hoàng Hoa Thám để nối từ đường Cộng Hòa vào nhà ga T3.
Như vậy, về tổng quy hoạch sử dụng đất, đến năm 2030, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất sẽ tăng lên 621,20 ha (không bao gồm đất quân sự quản lý).
Tổng mức đầu tư của dự án vào khoảng 19.350 tỷ đồng, huy động từ nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau, bao gồm vốn nhà nước chỉ đầu tư vào các hạng mục trong khu bay, còn lại huy động vốn xã hội hóa từ doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân.
Sau khi triển khai, nâng cấp, Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất sẽ đạt tiêu chuẩn là Cảng hàng không quốc tế cấp 4E theo quy định của ICAO, sản lượng vận chuyển hành khách đạt 43 – 45 triệu hành khách/năm, sản lượng vận chuyển hàng hóa đạt 1 triệu tấn hàng hóa/năm, với tổng số vị trí đỗ máy bay là 82 vị trí, loại máy bay khai thác: ATR72, A32, A321, B747, B777/787, A350 và tương đương, phương thức tiếp cận hạ cánh đạt CAT II.
Do tính chất cấp bách của dự án tại Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Cục Hàng không cũng đã kiến nghị Bộ Giao thông vận tải chấp thuận cho phép áp dụng cơ chế đặc thù để huy động nguồn vốn xã hội hóa.
Theo đó, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) sẽ ứng vốn từ Quỹ đầu tư phát triển của doanh nghiệp để triển khai ngay dự án này nhằm đáp ứng tiến độ hoàn thành.
Nguồn vốn hoàn ứng cho ACV sẽ được thu xếp theo hình thức: Bộ Giao thông vận tải báo cáo Chính phủ ghi vốn hoàn ứng cho dự án trong kế hoạch bổ sung đầu tư công trung hạn 2016 – 2020 (bổ sung danh mục dự án sử dụng nguồn vốn dự phòng của đầu tư công trung hạn 2016 – 2020); hoặc cho phép giữ lại khoản thu nộp ngân sách nhà nước hàng năm của 3 Cảng vụ hàng không (khoảng 190 tỷ đồng/năm 2016) và giữ lại khoản tiền cổ tức trên phần vốn nhà nước hàng năm của ACV (khoảng 150 tỷ đồng/năm 2016) để hoàn ứng cho dự án.