Nguồn vốn này chủ yếu tập trung cho đầu tư mới và cải tạo mở rộng, được thu xếp từ các nguồn tự có, vốn vay thương mại, vay ưu đãi và huy động qua các kênh chứng khoán...
Lễ công bố quy hoạch ngành than. |
Theo quy hoạch thăm dò than, tại bể than Đông Bắc, đến hết năm 2020 sẽ hoàn thành công tác thăm dò đến mức 300m (như các mỏ mở Bảo Đài, Đông Triều – Phả Lại, vịnh Cuốc Bê, Đông Quảng Lợi) và một số khu vực dưới 300m đảm bảo đủ trữ lượng và tài nguyên. Đến hết 2025, hoàn thành cơ bản công tác thăm dò đến đáy tầng than đảm bảo đủ than để huy động vào thiết kế trong giai đoạn 2021-2030 và sau 2030.
Với bể than sông Hồng, quy hoạch đặt ra trước năm 2020 hoàn thành công tác thăm dò than khu Nam Thịnh và một phần mỏ Nam Phú II, huyện Tiền Hải – Thái Bình; trên cơ sở thử nghiệm, sẽ tiến hành thăm dò mở rộng để làm cơ sở phát triển các mỏ than ở quy mô công nghiệp với công nghệ hợp lý.
Về khai thác than, sản lượng than thương phẩm sản xuất toàn ngành than trong các giai đoạn của quy hoạch khoảng 41-44 triệu tấn vào năm 2016; 47-50 triệu tấn vào năm 2020; 51-54 triệu tấn vào năm 2025 và 55-57 triệu tấn vào năm 2030.
Về tổn thất than, phấn đấu đến 2020 giảm tỷ lệ tổn thất than khai thác bằng phương pháp hầm lò xuống khoảng 20% và dưới 20% sau năm 2020; tỷ lệ tổn thất than khai thác bằng phương pháp lộ thiên xuống khoảng 5% và dưới 5% sau năm 2020...
Theo ông Nguyễn Khắc Thọ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng, quan điểm phát triển tại quy hoạch này là khai thác, chế biến, sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm nguồn tài nguyên than của đất nước; đóng góp tích cực vào việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; ưu tiên đáp ứng nhu cầu trong nước; đảm bảo xuất nhập khẩu hợp lý theo hướng giảm dần xuất khẩu.
Ông Thọ cũng cho biết, quá trình lập quy hoạch ngành than đã tính đến các quy hoạch ngành khác liên quan như vật liệu xây dựng, hóa chất, điện... để đảm bảo sự thống nhất, hài hòa. Theo quy định, sau 5 năm sẽ rà soát, bổ sung quy hoạch một lần.