Chủ động phòng ngừa các nguy cơ ô nhiễm
Đề nghị Bộ trưởng cho biết những kết quả nổi bật của ngành Tài nguyên và Môi trường trong thời gian qua ?
Những năm qua, ngành Tài nguyên và Môi trường đã phải đối mặt với những thách thức rất lớn do mô hình phát triển thiếu bền vững, biến đổi khí hậu gây hạn hán diễn ra gay gắt tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, xâm nhập mặn xảy ra ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt, sự cố môi trường biển gây hậu quả nghiêm trọng tại 4 tỉnh miền Trung. Nhìn lại thời gian qua, ngành Tài nguyên và Môi trường đã từng bước khắc phục, chuyển hóa được những khó khăn, thách thức đặt ra với ngành; chuyển từ bị động sang chủ động xử lý các vấn đề về môi trường.
Nhiều điểm nghẽn về cơ chế chính sách trong quản lý tài nguyên đã được ngành tham mưu để Đảng, Quốc hội và Chính phủ xem xét tháo gỡ, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi hơn. Nhiều chủ trương, chính sách lớn mang tầm chiến lược dài hạn đã được ngành xây dựng, trình ban hành, góp phần giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên cho phát triển mới của đất nước. Trong đó, nổi bật là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 với tư duy, cách tiếp cận đột phá cho công tác bảo vệ môi trường.
Thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường với phương châm hướng về địa phương cơ sở, tập trung giải quyết các kiến nghị của địa phương, người dân, doanh nghiệp, nâng cao tiếp cận đất đai, giải quyết đúng nút thắt, tháo gỡ rào cản, cắt giảm thủ tục hành chính, thúc đẩy, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
Bên cạnh đó, phát triển Chính phủ điện tử, chuyển đổi số đã đạt những bước tiến quan trọng với hệ thống dữ liệu quan trắc, dự báo, đất đai, không gian thông tin địa lý và dữ liệu lớn về viễn thám. Các nguồn tài nguyên được quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả. Tài nguyên khoáng sản, giá trị địa chất được điều tra, quản lý, sử dụng hiệu quả gắn với công nghiệp chế biến đóng góp cho tăng trưởng. Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, khai thác không gắn với yêu cầu bảo vệ môi trường đã cơ bản được khắc phục. Đặc biệt năm 2020 trong bối cảnh nguồn thu ngân sách khó khăn, nguồn thu từ đất đai vẫn đạt 133% kế hoạch, khoảng sản đạt 112% kế hoạch đóng góp cho ngân sách. Tài nguyên nước từng bước được quản lý sử dụng bền vững, đảm bảo an ninh, an toàn phục vụ đa mục tiêu; tập trung triển khai thực khắc phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các dòng sông lớn.
Chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường được tập trung hoàn thiện; phương thức quản lý được đổi mới, chuyển trọng tâm từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa các nguy cơ ô nhiễm từ giai đoạn đầu tư, giám sát chặt chẽ nguồn thải lớn. Kết quả công tác bảo vệ môi trường đã có sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động, chất lượng các thành phần môi trường được cải thiện, đóng góp cho tăng trưởng bền vững, đặc biệt sau sự cố môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung năm 2016.
Các quyết sách về ứng phó với biến đổi khí hậu được chủ động đề xuất, thúc đẩy triển khai có hệ thống với tầm nhìn chiến lược; công tác dự báo khí tượng thủy văn được tập trung hiện đại hóa, nâng cao chất lượng để các bộ, ngành, địa phương chủ động phương án sản xuất, kinh doanh, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Chỉ tính riêng đợt hạn mặn năm 2019-2020 mức độ ảnh hưởng lớn gấp 2-2,5 lần năm 2016 nhưng mức độ thiệt hại giảm 9,6%.
Nâng cao hơn nữa chất lượng dự báo, cảnh báo
Trong thời gian qua, sau một số sự cố môi trường, Bộ đã có những điều chỉnh cơ chế chính sách, giải pháp, bài học quản lý như thế nào, thưa Bộ trưởng?
Ngay từ chủ trương đầu tư, quy hoạch phát triển cũng như trong quá trình thẩm định sơ bộ và đánh giá tác động môi trường cần phải được làm kỹ, cần phải lựa chọn công nghệ thân thiện môi trường, xác định rõ trách nhiệm của nhà đầu tư, dự báo được những tác động có thể xảy ra đặc biệt là về nguồn nước, khí thải. Quan trọng hơn, nếu không có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý sẽ không phát huy được hiệu quả trong giám sát, quản lý sự cố môi trường. Hiện chúng tôi đã xác định 17 loại hình nguy cơ cao xảy ra sự cố về môi trường cần có sự giám sát, kiểm soát chặt chẽ ngay từ khi đánh giá tác động môi trường. Đồng thời, cần có sự công khai minh bạch thông tin để người dân có thể tham gia vào quá trình kiểm soát, giám sát về môi trường khi thực hiện các dự án. Đặc biệt, ngay từ khi làm quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch liên quan đến môi trường cần có sự tính toán để không xảy ra các sự cố môi trường trong tương lai.
Lĩnh vực quản lý về tài nguyên và môi trường rất rộng lớn, phụ thuộc rất nhiều vào sự tham gia của các lĩnh vực kinh tế khác; cùng với đó việc xác định mô hình phát triển kinh tế cũng quyết định một cách lâu dài đối với các vấn đề về môi trường mang tính bền vững. Nếu áp dụng một mô hình phát triển kinh tế không phù hợp, việc sửa chữa, khắc phục về môi trường sẽ cần thời gian rất dài, tốn nhiều công sức.
Tài nguyên là một trong những nguồn lực quốc gia, tham gia vào quá trình phát triển đất nước, do đó cần được đánh giá và lượng hóa. Việc đánh giá này cần công tác điều tra cơ bản với sự đầu tư lớn, bài bản. Trên thực tế hiện nay, nước ta mới chỉ điều tra cơ bản về tài nguyên được một phần trên đất liền, việc điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển còn rất hạn chế. Khi chưa điều tra được những nguồn lực này một cách cụ thể, chưa thể xác định chính xác, hạch toán một cách đầy đủ các nguồn lực quốc gia để phục vụ phát triển kinh tế, xã hội. Đây là một trong những nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Trong lĩnh vực ứng phó với biến đổi khí hậu và khí tượng thủy văn. Biến đổi khí hậu đang ngày càng trở nên cực đoan và khó đoán định, đặt ra một “gánh nặng” rất lớn lên ngành Tài nguyên và Môi trường nói chung cũng như ngành Khí tượng thủy văn nói riêng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hơn nữa chất lượng dự báo, cảnh báo, đánh giá được sự biến đổi của khí hậu để từ đó có thể đưa ra được những quy hoạch tổng thể, chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động thích ứng.
Ngoài ra, các bộ, ngành, các địa phương cần có sự phối hợp mạnh mẽ hơn nữa và cao hơn là các quốc gia trong việc giải quyết một vấn đề môi trường. Ví dụ như đối với lĩnh vực tài nguyên nước, hơn 60% nguồn nước trên các con sông thuộc lãnh thổ Việt Nam được bắt nguồn từ nhiều quốc gia khác nhau. Việc quản lý nguồn nước, đặc biệt là đối với sông Mê Công rất cần sự phối hợp, đồng lòng của các quốc gia trong lưu vực. Đối với vấn đề ô nhiễm rác thải nhựa, Việt Nam vừa là nguồn phát sinh vừa là nơi chịu ảnh hưởng, đây cũng là một vấn nạn mang tính toàn cầu, cần có một chế định mang tính toàn cầu.
Giữ không gian sống xanh cho con người
Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện những công việc gì để triển khai Chương trình “trồng 1 tỷ cây xanh”, thưa Bộ trưởng?
Bộ Tài nguyên và Môi trường đang xây dựng một đề án cụ thể để triển khai ý tưởng này của người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Thông qua ý tưởng trồng 1 tỷ cây xanh, tôi cho rằng mỗi người dân, mỗi tổ chức, mỗi địa phương đều có riêng cho mình một sáng kiến đối với việc trồng cây. Đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi thái độ của cá nhân đối với tự nhiên, tự nhiên đang chịu tác động rất lớn của việc phát triển kinh tế, việc mất cân bằng sinh thái tự nhiên đang là một nguy cơ nguy cấp. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ xem xét ở nhiều góc độ để triển khai ý tưởng này, để việc trồng cây không đơn thuần là một con số cụ thể mà còn giúp phục hồi thiên nhiên về mặt sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học, là di sản để lại cho các thế hệ sau này.
Ngoài ra, để thực hiện ý tưởng này, các đơn vị liên quan cần có sự đánh giá kỹ lưỡng về mặt thổ nhưỡng, về điều kiện đặc thù của từng địa phương. Dựa trên các điều kiện tự nhiên khác nhau sẽ có việc trồng cây khác nhau, cây trồng tại rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, tại các khu công nghiệp, đường giao thông… cần phải có sự phù hợp để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, việc trồng cây cần được tất cả người dân cũng như các địa phương thực hiện một cách lâu dài, thường xuyên, không chỉ là một phong trào ngắn hạn; trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phải đi đầu trong phong trào trồng cây.
Theo Bộ trưởng, cần có những việc làm cụ thể nào để đất nước ta tiến tới các mục tiêu về phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn?
Hiện nay, các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã tạo ra một nền tảng hết sức quan trọng để chúng ta chuyển đổi mô hình kinh tế đi theo chiều sâu và chất lượng. Mọi quá trình phát triển phải tính đến bảo vệ môi trường, giải quyết mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, con người với môi trường, giữa môi trường và kinh tế. Theo đó, trong mọi bài toán về kinh tế đều phải có tính đến môi trường, trong các chi phí về phát triển kinh tế đều phải bao gồm chi phí về bảo vệ môi trường.
Kinh tế nước ta cần phải chuyển đổi từ một nền “kinh tế nâu” sang nền “kinh tế xanh”, phải chuyển từ việc sử dụng các nguyên liệu hóa thạch sang các nguyên liệu thân thiện với môi trường, phải giữ được không gian sống xanh cho con người. Tư duy cần chuyển sang kinh tế tuần hoàn, hay nói cách khác, một nền kinh tế mà mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều phải được xử lý một cách hiệu quả, tiết kiệm.
Đến nay, chúng ta đang cần giải quyết nhiều bài toán về tăng trưởng, về các vấn đề xã hội. Tôi cho rằng, đầu tư vào phục hồi, phát triển các nền sinh thái tự nhiên sẽ giúp tạo ra nhiều giá trị cho nền kinh tế, đóng góp lớn trong việc tăng trưởng xanh của đất nước ta. Kinh tế số vừa là động lực, vừa là giải pháp đối với sự phát triển trong tương lai. Việc phát triển kinh tế số, xã hội số cũng như áp dụng những tiến bộ khoa học vào phát triển đất nước chính là giúp giảm đi những áp lực về môi trường, tạo ra việc làm và giá trị rất lớn trong việc khắc phục môi trường, phát triển lại rừng.
Hiện nay trên thế giới, nhiều nước đã công bố tình trạng khẩn cấp về biến đổi khí hậu, đặc biệt chúng ta đang đứng trước một đại dịch lớn chưa từng có là dịch COVID-19. Các nhà khoa học đã chứng minh sự liên quan của đại dịch này với các loài động vật hoang dã, với tình trạng hủy diệt các hệ sinh thái. Những khái niệm kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các bon thấp là những mục tiêu các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đang hướng tới. Với góc độ là cơ quan môi trường, tôi cho rằng chúng ta cần phải thay đổi thái độ của chúng ta đối với tự nhiên. Tự nhiên không chỉ báo động với chúng ta về biến đổi khí hậu mà tự nhiên còn báo động về một hành tinh đang mất đi tính cân bằng vốn có của nó bằng nhiều hình thái như: hạn hán, thiên tai, khí hậu cực đoan và dịch bệnh…
Tiếp tục nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
Trong năm 2021, ngành Tài nguyên và Môi trường sẽ triển khai những nhiệm vụ gì, thưa Bộ trưởng?
Những thành quả đạt được của ngành Tài nguyên và Môi trường trong thời gian qua mới chỉ là những nền tảng ban đầu. Môi trường được coi là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững bao gồm: kinh tế - xã hội - môi trường. Một trong những ý nghĩa quan trọng của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 là “lấy người dân làm lực lượng nòng cốt”, người dân phải là người thực hiện, tham gia và giám sát về môi trường. Nếu mỗi người dân đều có ý thức, coi việc bảo vệ môi trường quan trọng giống như người dân đất nước ta hiện nay đang rất đoàn kết chống lại dịch COVID-19 thì công tác bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đất nước, phát triển đất nước theo hướng thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong thời gian tới sẽ đạt được những bước tiến lớn.
Năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm diễn ra nhiều sự kiện chính trị quan trọng của đất nước như: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV. Đồng thời, cũng là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi về thế và lực của đất nước lớn mạnh; kinh tế vĩ mô ổn định, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng lên; tình hình chính trị - xã hội ổn định, cùng với những nền tảng, sức bật từ những thành tựu đổi mới trong năm 2020 và cả nhiệm kỳ vừa qua, ngành Tài nguyên và Môi trường sẽ tiếp tục còn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Để chuyển hóa các thách thức thành cơ hội, toàn ngành đặt quyết tâm cao nhất và tiếp tục đổi mới sáng tạo để hoàn thành các mục tiêu nhiệm vụ. Ngành phấn đấu sớm về đích hoàn thành các chỉ tiêu 90% chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom và xử lý bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn. 92% khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 100% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý. Các nguồn tài nguyên được sử dụng hợp lý, hiệu quả bền vững, đóng góp 11% thu ngân sách nội địa.
Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!