Hướng đi mới cho cây chè phát triển
Những năm trước, người dân trên địa bàn tỉnh Phú Thọ chủ yếu trồng những giống chè cũ phục vụ cho sản xuất chè đen xuất khẩu, thu nhập không cao khiến người dân không mặn mà với cây chè. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây đây, tỉnh Phú Thọ đã có nhiều giải pháp phát triển cây chè theo hướng bền vững. Đồng thời, có nhiều chính sách khuyến khích người dân đổi mở rộng diện tích, đưa những giống chè có năng suất, chất lượng. Từ đó, góp phần đưa cây chè trở thành cây chủ lực trong phát triển kinh tế, góp phần giảm nghèo bền vững. Tỉnh Phú Thọ đã hình thành nhiều làng nghề, hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất, chế biến chè đen, chè xanh đảm bảo chất lượng được thị trường chấp nhận.
Ông Đặng Đình Thành, Giám đốc hợp tác xã chè an toàn Văn Miếu cho hay, mặc dù xưởng sản xuất chỉ rộng 500m2 với 2 dãy máy quay, máy sao chè nhưng được sắp xếp theo dây chuyền khép kín, đảm bảo quy trình sản suất một cách khoa học… Ngoài ra, việc thành lập hợp tác xã còn nhằm đến mục tiêu liên kết các hợp tác xã khác với nhau, qua đó sẽ tạo nên những thế mạnh vượt trội so với việc phát triển theo hộ, mạnh ai người nấy làm. Các hộ sẽ đảm bảo được nguồn nguyên liệu đầu vào, đầu ra ổn định; sản phẩm bán ra thị trường có xuất xứ rõ ràng thông qua việc truy xuất nguồn gốc.
Hiện, hợp tác xã chè Văn Miếu quản lý hơn 20 ha chè và liên kết với 70 ha của các hộ trong xã để sản suất chè an toàn. Tuy nhiên, cái khó của sản xuất chè an toàn không chỉ là nguồn nguyên liệu đầu vào đảm bảo theo tiêu chuẩn “một tôm hai lá”, hái hoàn toàn bằng tay mà còn phải có kỹ thuật chế biến chuyên nghiệp, thành thạo việc điều chỉnh nhiệt, thời gian xao, tốc độ quay để cánh chè xoăn và giữ được màu sắc đẹp.
Theo tính toán, trung bình 1 ha sản xuất theo quy trình an toàn cho thu nhập khoảng 100 triệu đồng, cao gấp 2 lần so với sản xuất chè truyền thống. Thế nhưng, việc chuyển từ sản xuất chè truyền thống sang chè an toàn đòi hỏi người dân phải thực hiện nghiêm ngặt các quy trình kỹ thuật, tốn thời gian và công sức.
Phó Chủ tịch UBND huyện Thanh Sơn Đinh Thị Kiều An cho biết, trước đây, nhiều người dân trong huyện không mặn mà với cây chè, nhiều nương chè đất cằn cỗi không phát triển được do sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu không đúng quy trình.
Tuy nhiên đến nay, để phát triển cây chè theo hướng bền vững và đem lại hiệu quả kinh tế cao, huyện Thanh Sơn đã tập trung hướng dẫn người dân cách cải tạo đất, sử dụng phân bón hữu cơ, cách trồng mới, thay thế giống chè cũ năng suất thấp chuyển sang trồng cây chè giống chất lượng cao. Nhờ đó, năng suất và chất lượng cây chè dần được nâng lên, đến nay trung bình đạt 13 tấn/ha.
Còn Hợp tác xã chè Phú Thịnh, xã Phú Hộ, thị xã Phú Thọ là một trong nhưng điển hình về phát triển và xây dựng thương hiệu chè Phú Thọ. Sau nhiều năm xây dựng, đến nay hợp tác xã đã quy hoạch được vùng sản xuất chè tập trung với diện tích hơn 22 ha, sản lượng hàng năm đạt hơn 500 tấn chè búp tươi, cung ứng ra thị trường hơn 50 tấn chè xanh thương phẩm.
Ông Nguyễn Hữu Hồng, Giám đốc Hợp tác xã chè Phú Thịnh chia sẻ, sau khi được thành lập (2017), hợp tác xã đã liên kết với Viện khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc cung ứng những giống chè mới có năng xuất chất lượng thay thế những giống chè cũ kém chất lượng; đồng thời tổ chức nhiều lớp tập huấn để bà con tham vào quy trình sản xuất chè sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, cũng như cách trồng, chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP.
Hiện nay, sản phẩm chè xanh của hợp tác xã chè Phú Thịnh đã có chỗ đứng trên thị trường, giá trị sản phẩm ngày càng được tăng cao, thu nhập của các thành viên được nâng lên rõ rệt. Người dân đã thực sự coi cây chè là cây mũi nhọn, cây xóa đói, giảm nghèo của địa phương.
Để hương vị chè đất Tổ bay xa
Phú Thọ hiện có hơn 16 nghìn ha chè, năng suất đạt 118 tạ/ha; sản lượng đạt hơn 185 nghìn tấn/năm; tỷ lệ diện tích các giống chè mới đạt 75,3%; trong đó, cơ cấu giống phục vụ chế biến chè xanh khoảng 30%. Việc đẩy mạnh đầu tư và phát triển cây chè là chủ trương đúng đắn của tỉnh Phú Thọ và cây chè vẫn là một trong những cây trồng ổn định đem lại thu nhập bình quân đạt 30-40 triệu đồng/ha.
Bên cạnh vùng nguyên liệu chế biến chè đen xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới như: Ấn Độ, Trung Quốc, Đức, Anh, Pakistan bước đầu đã hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ chế biến chè xanh (trồng bằng các giống LDP1, Kim Tuyên, Phúc Vân Tiên...) tại các huyện: Tân Sơn, Thanh Sơn, Đoan Hùng, Thanh Ba, Phù Ninh, Hạ Hòa.
Tuy nhiên, sự phát triển này vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Nguyên nhân là do công tác quy hoạch vùng nguyên liệu còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp sản xuất chế biến chè được thành lập mới nhưng việc đầu tư vùng nguyên liệu không được mở rộng tương xứng dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp sản xuất chỉ đạt 60-70% công suất. Trong khi nhận thức của người dân về sản xuất hàng hóa, liên kết sản xuất, an toàn vệ sinh thực phẩm còn hạn chế. Việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ còn nhiều bất cập, nhãn mác sản phẩm chè chưa phù hợp, chưa trở thành công cụ tiếp cận thị trường có hiệu quả…
Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Thọ Nguyễn Ngọc Sơn cho biết, thực hiện tái cơ cấu ngành chè, trong thời gian qua, ngành nông nghiệp và các địa phương trong tỉnh đã tiến hành rà soát, sắp xếp cơ sở chế biến và tổ chức sản suất.
Theo đó, toàn tỉnh hiện có 55 công ty doanh nghiệp chế biến chè có công suất trên một tấn búp tươi/ngày, cùng với đó, Sở Khoa học và Công nghệ hỗ trợ 15 doanh nghiệp vừa và nhỏ đối mới công nghệ sao, sấy, phân loại chè trong chế biến chè xanh và chè đen đồng bộ, hiện đại; 14 hợp tác xã, 18 làng nghề, một trang trại sản xuất, chế biến chè và gần 900 cơ sở chế biến thủ công nhỏ lẻ.
Ngoài ra, một số nhà máy chế biến đã liên kết sản xuất với các hợp tác xã, nhóm hộ trồng chè đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định, kiểm soát được chất lượng chè thành phẩm. Trong đó có nhiều doanh nghiệp, làng nghề, hợp tác xã sản xuất, chề biến chè xanh xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ.
Đến nay, tỉnh đã có hơn 3.300 ha chè được sản xuất theo quy trình toàn, đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; 100% cơ sở chế biến chè búp tươi có vùng nguyên liệu hoặc ký kết hợp đồng xây dựng vùng nguyên liệu đảm bảo đủ cho chế biến chè xanh. Đây cũng là điểm “then chốt” để đưa sản phẩm chè đất Tổ bay xa hơn trên thị trường quốc tế
Ngoài ra, tỉnh Phú Thọ cũng đã triển khai xây dựng các mô hình sản xuất chè theo Dự án “Nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp” (QSEAP) tập trung chủ yếu ở các huyện trọng điểm. Đây là cơ sở cho việc thu hút đầu tư sản xuất chè hàng hóa chất lượng, giá trị cao; trong đó, đặc biệt chú trọng xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu chè an toàn theo hướng hữu cơ, hạn chế sử dụng phân bón vô cơ, hóa chất trừ sâu; áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP), từ khâu sản xuất đến chế biến thành phẩm cuối cùng.
Trong thời gian tới, tỉnh Phú Thọ tiếp tục thực hiện tái cơ cấu ngành chè theo hướng nâng hiệu quả, phát triển bền vững mối quan hệ giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, huy động, lồng ghép nguồn kinh phí từ các chương trình, dự án để tập trung phát triển cây chè theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Dự kiến, kinh phí đầu tư cho phát triển ngành chè là trên 118 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, tỉnh sẽ tiếp tục sắp xếp các cơ sở chế biến; đổi mới thiết bị, công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng đảm bảo an toàn thực phẩm mang lại giá trị gia tăng cao, nâng thu nhập người sản xuất, kinh doanh và xây dựng thương hiệu chè Phú Thọ.