Sông Trà Khúc chảy qua địa bàn TP Quảng Ngãi. Ảnh: Nguyễn Đăng Lâm/TTXVN phát |
Tại hội nghị, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Hoàng Văn Bẩy cho biết, Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Kôn - Hà Thanh bao gồm các hồ: Vĩnh Sơn A, Vĩnh Sơn B, Vĩnh Sơn C, Vĩnh Sơn 4, Vĩnh Sơn 5, Trà Xom 1, Định Bình, Núi Một, Thuận Ninh và Văn Phong đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, thực hiện từ mùa lũ năm 2014 đến nay (theo Quyết định số 1462/QĐ-TTg ngày 21 tháng 8 năm 2014) và thực hiện đồng thời cả mùa lũ, mùa cạn từ năm 2015 đến nay (theo Quyết định số 1841/QĐ-TTg ngày 29 tháng 10 năm 2015) nhằm đảm bảo yêu cầu về phòng, chống lũ và đảm bảo cấp nước dưới hạ du sông Kôn - Hà Thanh.
Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Trà Khúc bao gồm các hồ: Đakdrink, Nước Trong, Sơn Trà 1, Đak Re và Sơn Tây đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, thực hiện đồng thời cả mùa lũ, mùa cạn từ năm 2015 đến nay (theo Quyết định số 1840/QĐ-TTg ngày 29 tháng 10 năm 2015) nhằm đảm bảo yêu cầu về phòng, chống lũ và đảm bảo cấp nước dưới hạ du sông Trà Khúc.
“Hiện nay, trên dòng chính sông Kôn có thêm hồ chứa thủy điện Vĩnh Sơn 4 đang được xây dựng (dung tích toàn bộ 21,8 triệu m3 và dung tích hữu ích 9,1 triệu m3), khi hồ đi vào hoạt động sẽ có ảnh hưởng đến việc phòng lũ và cấp nước hạ du sông Kôn - Hà Thanh. Ngoài ra, vẫn còn một số ý kiến khác liên quan đến nội dung quy định vận hành trong mùa lũ, mùa cạn và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc thực hiện vận hành theo Quy trình liên hồ chứa đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành. Do đó, để kịp thời đáp ứng yêu cầu về phòng, chống lũ và cấp nước cho hạ du sông Kôn - Hà Thanh, sông Trà Khúc với hiện trạng các hồ chứa nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì rà soát, điều chỉnh Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Kôn - Hà Thanh và sông Trà Khúc” - Cục trưởng Hoàng Văn Bẩy cho biết.
Góp ý tại hội nghị về các quy định liên quan đến vận hành giảm lũ cho hạ du, một số đại biểu thuộc các cơ quan liên quan, các công ty thủy điện và các chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên nước nhất trí với việc ban hành 2 quy trình trên, cơ bản đều có hướng mở, trách nhiệm các địa phương được giao chủ động trong vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Kôn- Hà Thanh và sông Trà Khúc.
Ông Hà Văn Thắng, Giám đốc Công ty cổ phần Thủy điện Đakdrink đề nghị sửa đổi đối với điều 18 là Hồ thủy điện Đakdrink cho phép xả nước trung bình theo ngày chứ không nên ghi chi tiết giờ xả và cứ đến đầu tháng Công ty cổ phần Thủy điện Đakdrink sẽ thông báo cho Công ty thủy điện Nước Trong và cùng phối hợp với các đơn vị khác thực hiện. Tại điều 31, đơn vị quản lý hồ Đakdrink có trách nhiệm cung cấp thông tin, do vậy đề nghị Công ty thủy điện Sơn Tây có trách nhiệm tiếp nhận thông tin.
Đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi đề nghị nên quy định rõ trách nhiệm của tỉnh đối với các công ty quản lý thủy điện trong việc lắp đặt hệ thống giám sát tự động, trực tuyến việc vận hành xả nước của các hồ chứa theo quy định.
Cũng tại hội nghị, đại diện một số cơ quan liên quan cũng đề nghị giải thích rõ thêm cho các chủ hồ tại điều 18 khoản 3 “trường hợp xảy ra hạn hán với cấp độ rủi ro thiên tai do hạn hán từ cấp độ 2 trở lên thì căn cứ tình hình thực tế, lưu lượng đến hồ mực nước hồ, dự báo lưu lượng đến hồ và nhu cầu sử dụng nước tối thiểu ở hạ du…” bởi từ cấp độ 2 rất trừu tượng do đó nên nói rõ là kế thừa cấp độ rủi ro thiên tai cấp độ 2 do hạn hán. Ngoài ra, tại điều 21, khoản 2 “hàng ngày hồ Vĩnh Sơn 5 vận hành xả nước liên tục sau đập về hạ du sông Kôn với lưu lượng không nhỏ hơn 3,4 m3/s”, nên bỏ chi tiết lưu lượng không nhỏ hơn 3,4 m3/s…
Bên cạnh đó, một số nội dung góp ý khác liên quan đến vận hành và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có liên quan đến việc vận hành quy trình và chế độ quan trắc, dự báo, trách nhiệm cung cấp thông tin, báo cáo của các đơn vị có liên quan cũng được đề nghị rà soát, bổ sung trong Dự thảo quy trình.
Phát biểu kết luận hội nghị, Cục trưởng Hoàng Văn Bẩy yêu cầu tổ soạn thảo nghiên cứu, tổng hợp các ý kiến tại cuộc họp để hoàn thiện dự thảo, báo cáo lãnh đạo Bộ và gửi lấy ý kiến các bộ, ngành và các đơn vị liên quan trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành.