Cụ thể, Phó Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải rà soát kỹ các nội dung của Quy hoạch tổng thể cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 bảo đảm phù hợp với chỉ tiêu sử dụng đất phát triển hạ tầng tại Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV; chuẩn bị báo cáo Thường trực Chính phủ về nội dung quy hoạch, trong đó nêu rõ việc xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí, quy trình lựa chọn quy hoạch hệ thống cảng hàng không.
Theo Tờ trình của Bộ Giao thông vận tải trình Chính phủ, giai đoạn năm 2021 - 2030 sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội (Cảng hàng không quốc tế Nội Bài) và vùng TP Hồ Chí Minh (Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và Long Thành); từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 cảng hàng không hiện hữu, đầu tư 6 cảng hàng không mới để nâng tổng số cảng hàng không của cả nước đưa vào khai thác lên 28 cảng, tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 278 triệu hành khách, bảo đảm trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng trong phạm vi 100 km. Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, thiết bị quản lý bay theo hướng đồng bộ, hiện đại, ngang tầm khu vực, đáp ứng nhu cầu vận tải. Từng bước đầu tư các trung tâm logistics, trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay.
Mạng cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, hình thành 28 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc), 14 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo).
Duy trì vị trí quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/2011 để thay thế cho Cảng hàng không quốc tế Cát Bi giai đoạn sau năm 2030.
Tầm nhìn đến năm 2050, hình thành 29 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng quốc tế (Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc) và 15 cảng quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo).
Đặc biệt, trong giai đoạn này sẽ hình thành cảng thứ 2 hỗ trợ cho Cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Đông Nam Hà Nội và một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Bộ Giao thông vận tải cũng đề xuất danh mục dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư. Trong đó, ưu tiên đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không quốc tế lớn đóng vai trò đầu mối, như xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đạt công suất 25 triệu hành khách/năm; xây dựng nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đạt công suất 20 triệu hành khách/năm; mở rộng nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài (nâng công suất lên 15 triệu hành khách/năm), xây dựng đường cất hạ cánh số 3, nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Nam của cảng...
Đầu tư xây dựng mở rộng, xây dựng mới các cảng tại vùng sâu, vùng xa, vùng núi, hải đảo, như: Điện Biên, Côn Đảo, Sa Pa, Pleiku...; đầu tư xây dựng, mở rộng các cảng bảo đảm quốc phòng - an ninh, như xây dựng khu bay và khu hàng không dân dụng cảng hàng không Phan Thiết, Thọ Xuân...; mở rộng các cảng đáp ứng nhu cầu vận tải: Phú Bài, Đồng Hới, Cát Bi, Vinh, Đà Nẵng, Chu Lai, Phù Cát, Cam Ranh, Liên Khương...