“Tuyên bố chủ quyền hợp pháp của Việt Nam là rất mạnh mẽ và có cơ sở; hay nói một cách khác, yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông vừa rất yếu về mặt pháp lý vừa đạo đức giả”.Đó là nhận xét của Giáo sư, Tiến sĩ Zachary Abuza, chuyên gia phân tích chính trị và an ninh khu vực Đông Nam Á (ông nhận được bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ tại trường Luật và Ngoại giao Fletcher, Mỹ). Trong bài bình luận trên trang mạng Indo-Pacific Review mới đây với tiêu đề “Cách hành xử tồi của Bắc Kinh: Những cơ hội cho Việt Nam” (Bad Beijing: Opportunities for Vietnam), ông Abuza đã đưa ra một số quan điểm sau:
Các nhà lãnh đạo của Việt Nam rõ ràng đang bị thách thức bởi cách hành xử gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông và nguy cơ bị mất các nguồn tài nguyên thiên thiên. Căng thẳng xung quanh việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và hàng ngày đâm húc các tàu của Việt Nam đặt ra nguy cơ leo thang một cuộc xung đột lớn hơn mặc dù Việt Nam đã hết sức kiềm chế. Kể từ tháng 5/2014, sự kiện trên (vụ giàn khoan Hải Dương 981) đã thống trị trên cả các phương tiện truyền thông và giới chính trị, và dẫn đến sự phản đối rộng khắp chưa từng có tiền lệ. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng giàn khoan này cũng tạo ra những cơ hội cho Việt Nam và có thể giúp Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn.
Cách hành xử của Trung Quốc ở Biển Đông đang khiến nước này không có bạn bè trong khu vực. |
Về mặt ngoại giao, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố rằng Việt Nam đang cân nhắc việc phản đối tuyên bố của Trung Quốc về Biển Đông theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) lên trọng tài quốc tế tại La Haye. Điều này cho thấy Việt Nam đã thể hiện sự kiềm chế và mong muốn giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Philippines cũng đã kiện Trung Quốc lên trọng tài quốc tế, trong đó đưa ra chi tiết các luận cứ và bằng chứng pháp lý, phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với hầu hết khu vực Biển Đông - vốn không có giá trị và phi pháp chiểu theo UNCLOS 1982. Trong khi đó, Bắc Kinh tuyên bố rằng nước này không bị ràng buộc bởi phán quyết của trọng tài quốc tế nếu điều đó đi ngược lại với lợi ích của họ.
Cho đến nay, Trung Quốc vẫn phản đối phân xử của tòa án trọng tài quốc tế, điều này đang khiến Trung Quốc bị cô lập và đặt ra sự nghi ngờ về cái gọi là sự “trỗi dậy hòa bình” cùng với những cam kết của Bắc Kinh trong việc thực hiện những nguyên tắc và luật pháp quốc tế. Bắc Kinh có thể “cả vú lấp miệng em” khi vu cáo các tàu của Việt Nam đâm vào tàu Trung Quốc gần khu vực hạ đặt trái phép giàn khoan, nhưng họ đang bị thất thế trước công luận khi các đoạn video mới được công bố đều là bằng chứng cho thấy hành động khiêu khích của Bắc Kinh. Trung Quốc còn thể hiện sự đạo đức giả khi họ kháng cáo lên Liên hợp quốc về sự “gây hấn” của Việt Nam trong khi lờ đi Tòa án trọng tài quốc tế.
Bắc Kinh phải nhận ra rằng chính sách của họ đang khiến cho nước này không có bạn bè trong khu vực và phá hoại những lợi ích lâu dài của chính họ. Rõ ràng, các hành động khiêu khích của Bắc Kinh là sự vi phạm bản Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là một bên tham gia ký kết. Mặc dù không có sự ràng buộc, nhưng DOC yêu cầu các quốc gia liên quan không làm bất cứ điều gì nhằm thay đổi hiện trạng. Ngay cả một quốc gia không có tranh chấp trên Biển Đông như Singapore cũng phủ nhận việc đòi quyền lợi theo nguyên tắc “chân lý thuộc về kẻ mạnh" và kêu gọi giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ luật pháp quốc tế.
Sẽ là trầm trọng hơn đối với Trung Quốc nếu các nước khác cũng ủng hộ biện pháp pháp lý phản đối cách hành xử của Bắc Kinh, vì tranh chấp ở Biển Đông sẽ bắt đầu trở thành vấn đề đa phương, điều mà nước này từ lâu luôn tìm cách tránh né. Chiến lược của Bắc Kinh luôn là giải quyết tranh chấp liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải trên Biển Đông thông qua đàm phán song phương, nhưng hành động gần đây của Trung Quốc đã nhen nhóm các cuộc thảo luận của ASEAN về một bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) vốn đã bị đình trệ. Malaysia, Indonesia, Singapore, Philippines và Việt Nam đã ủng hộ tổ chức một vòng đàm phán mới về COC. Bắc Kinh rõ ràng là không muốn điều đó xảy ra.
Indonesia cũng vừa thúc đẩy một giải pháp hòa bình cho tranh chấp, vừa tăng cường khả năng quân sự của mình và sự quan tâm ngoại giao đối với vấn đề Biển Đông, nơi mà bản đồ “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh cũng bao gồm cả quần đảo Natuna của nước này. Lực lượng hải quân Indonesia đã tăng cường các cuộc diễn tập trong khi Jakarta tăng chi tiêu quân sự, cũng như triển khai thêm lực lượng tới đảo Natuna.
Rõ ràng, Tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông về pháp lý là rất mạnh mẽ và có cơ sở; hay nói một cách khác, yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông là yếu về mặt pháp lý và đạo đức giả. Ví dụ, Bắc Kinh phủ nhận quyền thềm lục địa của các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông trong khi điều này lại là cơ sở trong tuyên bố của Trung Quốc chống lại Nhật Bản ở quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Tương tự như vậy, Trung Quốc tự xây dựng các đảo san hô, khẳng định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) 200 hải lý của họ, trong khi không công nhận EEZ của Nhật Bản xung quanh quần đảo Senkaku/Điếu Ngư. Thậm chí Bộ Ngoại giao Trung Quốc đang thay đổi cách thức biện hộ cho "đường 9 đoạn”, bởi vì nó là hoàn toàn bất hợp pháp theo UNCLOS. Vì vậy, Bắc Kinh đang tìm cách tạo ra "các sự kiện trên thực địa", đe dọa đến các quốc gia có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông.
Trong khi đó, Việt Nam đã thể hiện thiện chí của mình bằng việc sẵn sàng tìm kiếm các biện pháp pháp lý và hòa bình để làm giảm leo thang căng thẳng, nên đã nhận được sự ủng hộ rất lớn từ cộng đồng quốc tế, đặc biệt là từ Mỹ và Nhật Bản, hai nước vốn rất quan ngại hành động gây hấn của Trung Quốc. Đó là lợi thế ngoại giao mà Việt Nam thu được sau cách hành xử khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông.
Về mặt kinh tế, mặc dù tăng trưởng kinh tế bị ảnh hưởng một chút liên quan đến vấn đề Biển Đông, nhưng Việt Nam vẫn là một môi trường kinh doanh an toàn và ổn định. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam giảm sự phụ thuộc thương mại vào Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam đang có lợi thế rất lớn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài do các chi phí đang gia tăng ở các nước ASEAN khác, một số nhà đầu tư nước ngoài đang rút ra khỏi Thái Lan do bất ổn chính trị. Việt Nam có thể hưởng lợi từ điều đó nếu tiếp tục thực hiện những cải cách kinh tế một cách nghiêm túc.
Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu là chìa khóa đối với an ninh quốc gia Việt Nam. Tóm lại, một quốc gia nghèo không bao giờ là một nước mạnh. Và với những quyết định đúng đắn, Việt Nam có thể phát triển mạnh mẽ hơn sau cuộc khủng hoảng giàn khoan này.
Công Thuận (Theo I.P.R)