Theo báo cáo, từ tháng 12/2019 đến tháng 12/2023, số giờ làm việc trung bình của những người lao động theo giờ ở Mỹ đã giảm từ ,4 xuống 37,7 một tuần, giảm gần 2%.
Các nhà khoa học dữ liệu của ADP đã theo dõi khoảng 13 triệu việc làm theo giờ trên khắp nước Mỹ để so sánh.
Nela Richardson, nhà kinh tế trưởng tại ADP, cho biết rõ ràng là thời gian làm việc ngắn hơn không thể do đại dịch hoàn toàn.
Ở Mỹ, thời gian làm việc đã bị giảm trong nhiều thập kỷ khi nền kinh tế Mỹ chuyển từ sản xuất hàng hóa sang cung cấp dịch vụ, loại bỏ các công việc sản xuất có giờ cố định để chuyển sang các công việc dịch vụ như kế toán và dịch vụ khách hàng vốn linh hoạt hơn.
Có 4 nhóm thuộc thành phần giảm thời gian lao động bao gồm: phụ nữ, thanh niên, công nhân được trả lương cao và nhân viên tại các doanh nghiệp nhỏ.
Theo phân tích, những nhóm này không phải là những người bỏ việc hoặc làm việc ít chăm chỉ hơn trong công việc. Thay vào đó, giảm giờ làm là do mong muốn của nhân viên và do nhiều yếu tố khác.
Nghiên cứu của ADP cho thấy hầu hết những người làm việc ít giờ hơn đều có thu nhập cao, với mức lương trung bình ít nhất là 79.500 USD một năm. Trong khi đó, những người có thu nhập thấp hơn, với mức lương trung bình từ 35.400 USD trở xuống một năm, đang làm việc nhiều hơn so với bốn năm trước.
Những người có thu nhập cao có thể duy trì thu nhập hàng năm mà phải làm việc ít giờ hơn nhờ mức lương tăng mạnh sau đại dịch. Tiền lương của người lao động đang tăng nhanh hơn so với trước đại dịch, khiến một số người có thể làm việc ít hơn.
Nhưng những người có mức lương thấp có thể cảm thấy sức ép của lạm phát nhiều hơn và không có được sự linh hoạt tương tự.
Một cuộc khảo sát gần đây của Bankrate với hơn 2.000 người Mỹ đã phát hiện ra rằng những người có thu nhập cao nhất thường ít bị ảnh hưởng bởi lạm phát.
Trong đó, 64% người lao động kiếm dưới 50.000 USD mỗi năm cho biết thu nhập của họ không đủ để đối phó với lạm phát, trong khi chỉ có 56% người có thu nhập từ 80.000 USD đến 99.999 USD chia sẻ quan điểm này.
Số liệu từ Bộ Lao động Mỹ cũng chỉ ra một con số kỷ lục 22 triệu người đang làm việc bán thời gian.
Theo báo cáo của ADP, đặc biệt là với phụ nữ, họ chiếm 55% tổng số người làm việc bán thời gian theo giờ vào tháng 12/2023.
Theo Trung tâm Luật Phụ nữ Quốc gia tại Mỹ, phụ nữ làm việc bán thời gian nhiều gấp 1,6 lần so với nam giới.
Năm 2019, phụ nữ làm việc ít hơn 4,4 giờ mỗi tuần so với nam giới - những người làm việc 40 giờ. Kể từ đó, khoảng cách này đã tăng lên thành 5,4 giờ.
Việc thiếu các lựa chọn chăm sóc trẻ em và chăm sóc người cao tuổi đã buộc một số phụ nữ phải giảm giờ làm hoặc rời bỏ lực lượng lao động.
Theo Bộ Lao động Mỹ, mặc dù nam giới đảm nhận nhiều nhiệm vụ chăm sóc hơn từ khi đại dịch bắt đầu, nhưng phụ nữ vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong công việc chăm sóc ở Mỹ.
Các ngành có số giờ làm việc giảm nhiều hơn - như chăm sóc sức khỏe, giải trí và khách sạn - đều chủ yếu có lao động là nữ.
Các công ty nhỏ hiện đang gặp khó khăn với lạm phát và tuyển dụng. Một số doanh nghiệp thuê thêm nhân công bán thời gian để giảm chi phí và đối phó với tình trạng thiếu lao động.
Các công ty nhỏ, đặc biệt là những công ty có từ 20 - 49 nhân viên, đã giảm giờ làm việc để đối phó với chi phí lao động cao hơn và tránh tình trạng thiếu lao động trong tương lai. Tại các công ty này vào năm 2023, mọi người làm việc ít hơn ba giờ mỗi tuần so với năm 2019.
Mặc dù mọi người đang làm việc ít hơn nhưng thị trường việc làm tại Mỹ vẫn có khả năng phục hồi một cách đáng ngạc nhiên sau đại dịch. Tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức dưới 4% kể từ tháng 12/2021, trong khi năng suất tăng cao.