Bởi tổng lượng nguồn nước mặt từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm khoảng 63%. Trong khi chất lượng nước tại một số lưu vực sông của Việt Nam đang bị suy thoái, ô nhiễm và nhu cầu sử dụng nước gia tăng nhanh chóng là những thách thức về bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý nguồn nước nói chung và các lưu vực sông nói riêng. Nhân Ngày Nước thế giới 22/3/2020, TTXVN giới thiệu chùm 3 bài về “Thực trạng nguồn nước các lưu vực sông”.
Từ nhiều năm nay, ô nhiễm môi trường nước ở hạ lưu các lưu vực sông là vấn đề diễn ra khá phổ biến. Trong đó, nổi cộm lên là những điểm nóng về ô nhiễm môi trường nước kéo dài, do nước thải từ hoạt động sản xuất, sinh hoạt đô thị… xả thải ra môi trường nhưng chưa có biện pháp xử lý triệt để.
Nhiều tác động tiêu cực đến chất lượng và trữ lượng nước
Với hệ thống sông ngòi dày đặc gồm 8 lưu vực sông lớn, 25 lưu vực sông liên tỉnh, 75 lưu vực sông nội tỉnh, hơn 3.000 sông, suối, nhưng chỉ có khoảng 37% tổng lượng nước sinh ra trên phần lãnh thổ Việt Nam. Lưu lượng nước trên các lưu vực sông có sự biến động theo mùa, theo vùng miền (khoảng 80% lượng nước tập trung mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 1 năm sau và giảm mạnh, thậm chí khô kiệt vào mùa hè).
Phần lớn các đô thị ở Việt Nam tập trung dọc theo các sông lớn, nhưng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội của đô thị còn chưa đồng bộ, quá tải làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường. Sự phát triển dân số và quá trình đô thị hóa tại các đô thị trong thời gian qua đã và đang gây sức ép đến sử dụng tài nguyên nước và môi trường các lưu vực sông. Sự phát triển các ngành kinh tế làm gia tăng nhu cầu sử dụng nước, tuy là động lực phát triển song cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước trên các lưu vực sông trong thời gian qua.
Môi trường nước trên các lưu vực sông còn chịu tác động mạnh bởi diễn biến, xu thế của biến đổi khí hậu toàn cầu. Việt Nam đứng trong nhóm 10 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ những hiện tượng thời tiết cực đoan. Tại đồng bằng Bắc Bộ và ven biển miền Trung, mùa khô có xu hướng đến sớm và kéo dài hoặc mưa tập trung với cường suất lớn, dẫn tới hạn hán và lũ lụt, ngập mặn và sạt lở bờ biển ngày một gia tăng. Nam Bộ đang đối diện với tình trạng ngập lụt và xâm nhập mặn. Còn Đồng bằng sông Cửu Long, cùng với vấn đề xâm nhập mặn, hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển cũng xảy ra tại hầu hết các địa phương trong vùng.
Theo đánh giá của Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, chính quyền các cấp cũng như cộng đồng, xã hội đã có nhiều nỗ lực bảo vệ môi trường trên các lưu vực sông. Nhưng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất và dân sinh ngày càng tăng do quá trình phát triển kinh tế-xã hội, áp lực của sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ trong những năm qua, đã tạo ra nhiều tác động tiêu cực đến chất lượng và trữ lượng nguồn nước các lưu vực sông.
Nhìn chung, môi trường nước mặt tại các lưu vực sông chính đã và đang dần được kiểm soát mức độ gia tăng ô nhiễm. Các lưu vực sông Hồng - Thái Bình, Mã, Vu Gia -Thu Bồn, Cửu Long (Mê Kông) là những lưu vực sông có chất lượng nước khá tốt. Nhiều đoạn sông, nước sử dụng tốt cho mục đích cấp nước sinh hoạt. Nhưng một số lưu vực sông bị ô nhiễm khá nghiêm trọng, nhiều đoạn sông có chất lượng nước ở mức kém và rất kém, điển hình là lưu vực sông Nhuệ - Đáy. Hầu hết các lưu vực sông trên lãnh thổ Việt Nam đều có chất rắn lơ lửng và độ đục trong nước khá cao, đặc biệt là vào mùa lũ. Mặc dù đây là đặc điểm tự nhiên của sông nhưng vẫn ảnh hưởng nhất định đối với những khu vực sử dụng nước sông làm nguồn nước cấp cho sinh hoạt. Lượng nước thải phát sinh trên một đơn vị diện tích ở khu vực đô thị lớn hơn nhiều so với khu vực nông thôn, dẫn đến quá tải các hệ thống thoát nước và tiếp nhận nước thải tại các thành phố. Hiện chỉ có 12,5% nước thải sinh hoạt từ các đô thị loại IV trở lên được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn quy định.
Gia tăng các nguồn thải
Phân tích và đánh giá về các nguồn thải vào các lưu vực sông hiện nay, Tiến sĩ Hoàng Văn Thức, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường cho rằng, nguồn gây ô nhiễm môi trường nước các lưu vực sông xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Một phần do tiếp nhận chất thải từ các nguồn xả thải vào, một phần do sự lan truyền chất ô nhiễm trong môi trường nước, bao gồm nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, làng nghề, y tế và chất thải rắn.
Cho đến thời điểm hiện tại, hầu hết các khu vực thượng nguồn của các lưu vực sông đều có chất lượng nước tương đối tốt. Trong đó, một số khu vực thượng nguồn có hiện tượng ô nhiễm do chịu tác động bởi hoạt động khai thác khoáng sản. Khu vực trung lưu và hạ lưu (đặc biệt là các đoạn chảy qua khu vực đô thị, khu vực công nghiệp, làng nghề), môi trường nước tiếp tục bị ô nhiễm do tác động của chất thải. Mức độ ô nhiễm phụ thuộc vào yếu tố thủy văn (tăng cao vào mùa khô) và đặc biệt phụ thuộc vào việc kiểm soát các nguồn thải.
Theo số liệu thống kê năm 2018 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tổng lưu lượng nước thải trên toàn quốc theo giấy phép xả thải đã cấp khoảng 100 triệu m3/ngày đêm. Tùy theo khu vực, vùng miền, tỷ lệ nước thải phát sinh từ các nguồn là khác nhau. Các khu vực nước bị ô nhiễm đều là ô nhiễm hữu cơ, các thông số đặc trưng cho chất hữu cơ và vi sinh vật vượt ngưỡng giới hạn cho phép. Vấn đề ô nhiễm dầu mỡ, kim loại nặng chỉ xảy ra cục bộ tại các khu vực chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động giao thông thủy hoặc sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản. Tại các khu vực cửa sông, đặc biệt là các cửa sông khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, tình trạng xâm nhập mặn có xu hướng ngày càng nghiêm trọng. Trong tháng 3/2020, dự báo xâm nhập mặn tại Đồng bằng sông Cửu Long có thể vào sâu trong nội địa trên 100km.
Trong tổng lượng nước thải phát sinh ra các lưu vực, lượng nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Nước thải sinh hoạt chiếm 30% tổng lượng thải trực tiếp ra các sông hồ, hay kênh rạch dẫn ra sông (Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng là 2 vùng tập trung nhiều lượng nước thải sinh hoạt nhất cả nước). Lượng nước thải phát sinh trên một đơn vị diện tích ở khu vực đô thị lớn hơn nhiều so với khu vực nông thôn, dẫn đến quá tải các hệ thống thoát nước và tiếp nhận nước thải tại các thành phố. Hiện chỉ có 12,5% nước thải sinh hoạt từ các đô thị loại IV trở lên được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn quy định.
Nước thải công nghiệp phát sinh chủ yếu ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Nước thải công nghiệp đã được chú ý kiểm soát và xử lý, tỷ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung là khá cao (88,05%), trong khi chỉ có 15,8% các cụm công nghiệp có hệ thống này. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng một số cơ sở sản xuất kinh doanh nằm ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp xả nước thải không qua xử lý, hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn vào các nguồn tiếp nhận tại các lưu vực sông.
Nước thải nông nghiệp phát sinh chủ yếu từ hoạt động canh tác, trồng trọt và chăn nuôi, do có chứa hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón cao. Ước tính mỗi năm khoảng 70 nghìn kg và hơn 40 nghìn lít thuốc trừ sâu không được xử lý, xâm nhập vào môi trường, làm gia tăng mức độ ô nhiễm nước mặt, nước ngầm. Nước thải chăn nuôi và nước thải từ hoạt động nuôi trồng thủy sản cũng là những nguồn gây ô nhiễm, hiện chưa được quản lý và kiểm soát hợp lý. Theo báo cáo năm 2018 của Bộ Y tế, tỷ lệ nước thải y tế phát sinh tại các bệnh viện trực thuộc Bộ, cấp tỉnh, cấp huyện được xử lý theo quy định đạt 97,3%.
Bên cạnh các nguồn nước thải kể trên, một lượng chất thải rắn không được kiểm soát, đổ bừa bãi gây ô nhiễm các dòng kênh, sông, có nơi làm tắc nghẽn dòng chảy. Tỷ lệ thu gom xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị ước tính khoảng 86%, tại khu vực nông thôn tỷ lệ này chỉ đạt 40-55% tùy theo từng khu vực. Như vậy, vẫn còn một lượng khá lớn chưa được xử lý theo quy định, chưa kể tới lượng chất thải rắn chưa được thu gom, một phần không nhỏ thải trực tiếp ra ao, hồ, kênh, rạch. Cả nước có khoảng 660 bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt, trong đó chỉ có 203 bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh lại là nguy cơ làm ô nhiễm các tầng chứa nước, dẫn đến suy giảm các nguồn nước trong các lưu vực sông.
Bài 2: Sức ép về phát triển kinh tế-xã hội