Trong tháng 3 năm nay có 3/11 nhóm hàng có CPI giảm so với tháng trước; trong đó, nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,57% do trong tháng giá gas và giá dầu thế giới giảm nên trong nước giá gas giảm 3,06% so với tháng trước; giá dầu hỏa giảm 7,5%; sản lượng tiêu thụ điện, nước giảm dẫn đến bình quân giá điện giảm 0,42%; giá nước giảm 3,14%.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,5% chủ yếu do giá các loại thịt gia súc, gia cầm, thủy, hải sản và rau tươi, khô, chế biến giảm nên giá nhóm hàng thực phẩm giảm 0,75%; bên cạnh đó nhóm lương thực cũng giảm 0,29%. Nhóm giao thông giảm 0,08% do giá xăng, dầu tiếp tục điều chỉnh giảm 2 kỳ vào ngày 1/3 và ngày 21/3/2023 khiến bình quân trong tháng giá nhiên liệu giảm so với tháng trước.
Trong tháng có 8/11 nhóm hàng CPI tăng nhẹ so với tháng trước, nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,44% do trong tháng trùng với mùa lễ hội đầu năm nên lượng khách đến tham quan, vui chơi, giải trí tăng cao; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,2%; nhóm thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,15%; nhóm bưu chính viễn thông và nhóm đồ uống, thuốc lá cùng tăng 0,06%; nhóm giáo dục và nhóm thuốc, dịch vụ y tế cùng tăng 0,02%.
Bình quân quý I/2023, CPI tăng 2,25% so với bình quân cùng kỳ năm trước; trong đó 8/11 nhóm hàng có CPI tăng, văn hóa, giải trí và du lịch; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống; đồ uống và thuốc lá; may mặc, mũ nón, giày dép; thiết bị và đồ dùng gia đình; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng; thuốc và dịch vụ y tế. Có 3/11 nhóm hàng CPI bình quân quý I năm nay giảm so với bình quân cùng kỳ như giáo dục; bưu chính viễn thông; giao thông.
Chỉ số giá vàng tháng 3 giảm 0,6% so với tháng trước, giảm 2,45% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,66% so với tháng 12/2022. Bình quân quý I/2023, chỉ số giá vàng tăng 0,37% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3 tăng 0,51% so với tháng trước, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước và giảm 1,53% so với tháng 12/2022. Bình quân quý I/2023 chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,71% so với bình quân cùng kỳ năm trước.
Về kim ngạch xuất, nhập khẩu của thành phố những tháng đầu năm có xu hướng giảm, hầu hết các thị trường xuất, nhập khẩu lớn của Hà Nội giảm sút. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa quý I/2023 ước đạt 11,9 tỷ USD, giảm 9,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,7 tỷ USD, giảm 4,6%; nhập khẩu đạt 8,2 tỷ USD, giảm 12%.
Tính chung quý I/2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 3,72 tỷ USD, giảm 4,6% so với cùng kỳ năm trước, khu vực kinh tế trong nước giảm 6,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,9%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu quý I giảm so với cùng kỳ như hàng dệt, may; phương tiện vận tải và phụ tùng; hàng nông sản; gỗ và sản phẩm từ gỗ.
Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng so với cùng kỳ như linh kiện máy tính và thiết bị ngoại vi; máy móc thiết bị phụ tùng; xăng dầu; điện thoại và linh kiện.
Về kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tính chung quý I/2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 8,176 tỷ USD, giảm 12% so với cùng kỳ năm trước, khu vực kinh tế trong nước đạt 6,583 tỷ USD, giảm 11,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,594 tỷ USD, giảm 12,2%.
Một số mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong quý I năm nay như xăng dầu tăng 3,9%; máy móc thiết bị phụ tùng giảm 14,8%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện giảm 29,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng, tăng 4,5%; sắt thép giảm 30,4%; chất dẻo giảm 27,2%; hàng hóa khác tăng 1,4%...
UBND thành phố Hà Nội cho biết đang tiếp tục đẩy nhanh tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi về mặt thủ tục để khuyến khích doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư sản xuất kinh doanh tại Hà Nội.