Khoa học và công nghệ ngày càng chứng tỏ tầm quan trọng đối với nền kinh tế cũng như đối với từng gia đình. Nông dân, ngư dân, những người vốn không quen với các phương tiện hiện đại cũng ngày càng cảm nhận rõ sức ép của việc thiếu kiến thức khoa học, công nghệ và việc chưa tiếp cận được các quy trình chế biến, bảo quản tiên tiến dẫn đến chất lượng, giá trị nông sản thấp và họ thường xuyên phải lo lắng về đầu ra cho các sản phẩm của mình mỗi khi đến mùa thu hoạch.
Những ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương hiện vẫn băn khoăn, trăn trở bởi cá ngừ đại dương khi họ đánh bắt lên rất tươi ngon nhưng khi bán giá chỉ bằng 1/3 đến 1/4 so với giá cá ngừ cùng loại của Nhật Bản. Nguyên nhân là do chưa có công nghệ, cách bảo quản thích hợp. Chia sẻ về vấn đề này, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cho rằng, điều này xuất phát từ một thực tế là các cơ sở sản xuất kinh doanh, thậm chí các doanh nghiệp chế biến thủy hải sản quy mô còn nhỏ lẻ, chưa có các tàu dịch vụ để giúp ngư dân bảo quản sơ bộ cá ngừ ngay sau khi đánh bắt, trong khi thời gian đi từ đại dương về tới đất liền mất rất nhiều ngày. Nếu bảo quản bằng những phương pháp cổ điển thì khi về đến bờ, con cá đã bị giảm chất lượng nhiều.
Bộ trưởng Nguyễn Quân trong chương trình "Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời". Ảnh: Chinhphu.vn |
Bộ trưởng Nguyễn Quân khẳng định: Bộ Khoa học và Công nghệ đã quan tâm đến vấn đề này từ lâu. Cách đây hai năm, Bộ đã tiếp nhận một công nghệ do Đại sứ quán Việt Nam và đại diện của Bộ tại Nhật Bản làm đầu mối chuyển giao. Đó là công nghệ bảo quản cá ngừ đại dương cũng như các loại thủy hải sản khác trong thời gian lâu dài mà vẫn giữ nguyên được chất lượng như khi mới đánh bắt. Hiện công nghệ này đã thí nghiệm thành công với cá ngừ, tôm sú và một vài loại nông sản khác, nhưng để áp dụng được thì còn phải tiếp tục nhận chuyển giao công nghệ từ phía Nhật Bản.
Trước mắt, Bộ hợp tác với tỉnh Phú Yên, sẽ xây dựng một nhà máy bảo quản cá ngừ cho ngư dân ở Phú Yên và Bình Định. Tuy nhiên, để thực hiện được công nghệ này, bà con phải tuân thủ các quy trình chặt chẽ trong việc bảo quản sơ bộ để quá trình từ khi đánh bắt xong cho đến khi đưa về nhà máy chế biến rút ngắn hơn, nếu không khi về đến nhà máy, tiếp cận được công nghệ chế biến hiện đại thì sản phẩm đã bị hỏng.
Liên quan đến công nghệ chế biến tỏi trắng thành tỏi đen, Bộ trưởng cho biết: Việc chế biến tỏi trắng thành tỏi đen có thể làm gia tăng giá trị sản phẩm lên gấp 100 lần. Tỏi đen được dùng để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; đòi hỏi công nghệ chế biến hiện đại, thị trường tiêu thụ lớn. Ngay từ khi trồng, người nông dân phải tuân theo một quy trình khoa học để bảo đảm chất lượng; sử dụng giống, thuốc bảo vệ thực vật an toàn... Hiện nay, Học viện Quân y đã làm chủ công nghệ chế biến này và sẵn sàng chuyển giao nếu bà con có nhu cầu.
Cùng chung những băn khoăn về công nghệ chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch hiện nay, nông dân các vùng trồng vải cho rằng, trên thị trường Nhật Bản 5 quả vải có giá bán tới vài trăm nghìn đồng trong khi tại các vườn vải, bà con đang bán với giá từ 7 đến 8 nghìn đồng/kg. Nhưng nếu không bán như vậy thì không có cách nào bảo quản quả vải.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Nguyễn Quân cho biết: Cách đây 3 năm, Bộ Khoa học và Công nghệ đã hỗ trợ cụm vải thiều Lục Ngạn xây dựng chỉ dẫn địa lý cho cây vải và nhờ vậy giá bán của vải thiều Lục Ngạn đã cao hơn nhiều so với trước đây. Nông dân đã bớt phải bán đổ bán tháo khi vào mùa chín rộ. Tuy vậy, đây cũng chỉ là giải pháp ngắn hạn. Về lâu dài, chúng tôi vẫn mong muốn có công nghệ bảo quản, chế biến. Năm 2013, Bộ đã có chương trình hợp tác với Nhật Bản về bảo quản sau thu hoạch các sản phẩm nông nghiệp, trị giá gần 1 triệu USD. Đó là công nghệ CAS (Hệ thống tế bào còn sống) của Nhật Bản để sử dụng trong bảo quản những sản phẩm hải sản, nông sản hàng hóa xuất khẩu.
Hiện trong lĩnh vực bảo quản hải sản, nông sản, CAS là công nghệ hiện đại nhất, với nguyên lý kết hợp giữa từ trường và đông lạnh nhanh. Hải sản và trái cây được bảo quản bằng công nghệ CAS sẽ giữ được chất lượng, độ thơm ngon như vừa mới thu hoạch, mặc dù thời gian lưu trữ có thể một hay nhiều năm, tùy đối tượng. Đây là công nghệ đã được áp dụng rất hiệu quả tại nhiều doanh nghiệp chế biến và kinh doanh hải sản, nông sản, thịt gia súc, gia cầm và thực phẩm tại nhiều quốc gia trên thế giới. Bộ Khoa học và Công nghệ đã đầu tư, giai đoạn 1 là nhập khẩu công nghệ, làm chủ công nghệ và thí nghiệm thành công với quả vải, tôm sú và cá ngừ.
Đối với quả vải, chúng tôi đang đàm phán với phía Nhật Bản để thâm nhập vào thị trường này. Nếu một loại quả muốn vào được thị trường các nước phát triển thì phải qua rất nhiều công đoạn. “Theo quy trình hiện nay, chúng ta phải thí điểm đưa cho họ một sản phẩm mẫu. Sau khi họ chấp nhận, họ thấy rằng có khả năng tiêu thụ, lúc đó chúng ta mới ký được hợp đồng. Nhưng ngay cả khi họ đã chấp nhận thì việc đưa một sản phẩm vào một quốc gia có những tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm khắt khe như Nhật Bản và các nước Châu Âu cũng là vấn đề không dễ dàng. Chắc chắn người nông dân khu vực trồng vải của chúng ta phải tổ chức sản xuất lại, phải gieo trồng, chăm bón, thu hoạch theo quy trình trước mắt là Viet Gap, còn về lâu dài là những tiêu chuẩn quốc tế (Global Gap). Khi đó, quả vải mới có được chất lượng đồng nhất, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm”- Bộ trưởng cho hay.
Bộ trưởng Nguyễn Quân bày tỏ hy vọng năm tới sẽ xuất khẩu được mặt hàng vải quả sang Nhật Bản. Tuần tới, công-ten-nơ đầu tiên với 10 tấn quả vải từ Lục Ngạn sẽ lên đường sang Nhật Bản, nếu được thị trường này chấp nhận thì sẽ giúp nông dân tiêu thụ quả vải tốt hơn.
Thu Phương