Các tiêu chuẩn kỹ thuật có xu hướng ngày càng siết chặt, điển hình như thị trường Trung Quốc. Vì vậy, chuẩn hóa quy trình sản xuất, sản xuất những sản phẩm thị trường cần... là giải pháp căn cơ để từng bước nâng cao giá trị nông sản xuất khẩu, tránh hệ lụy từ tình trạng “trồng - chặt” tự phát dẫn đến nguy cơ khủng hoảng thừa, giá sản phẩm giảm mạnh.
Tuân thủ quy hoạch
Theo Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025 và năm 2030 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, định hướng phát triển khoảng 65.000 - 75.000 ha cây sầu riêng, sản lượng 830.000 - 950.000 tấn; phát triển chanh leo khoảng 12.000 - 15.000 ha, sản lượng 250.000 - 300.000 tấn. Các tỉnh trọng điểm sản xuất sầu riêng, chanh leo như Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai…
Sầu riêng và chanh leo đều đã được xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc - thị trường tỷ dân, hứa hẹn mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường các nước nhập khẩu, bắt buộc phải đúng tiêu chuẩn với các đòi hỏi cụ thể về truy xuất nguồn gốc, an toàn thực phẩm, mã vùng trồng... Do đó, trước thực trạng phát triển nóng diện tích sầu riêng, chanh leo như hiện nay, ngành nông nghiệp và các địa phương ở Tây Nguyên đang khuyến cáo nông dân trồng theo quy hoạch.
Ngay từ đầu vụ sầu riêng năm 2023, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng đã đưa ra khuyến cáo nông dân không tự phát mở rộng diện tích sầu riêng tại các vùng có điều kiện đất đai, tưới tiêu nước không phù hợp; không tự phát chặt phá các loại cây trồng khác để chuyển sang trồng mới sầu riêng; không tự phát chuyển đổi vườn cây công nghiệp, cây khác đang trồng xen sầu riêng có hiệu quả sang trồng thuần cây sầu riêng.
Tương tự, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Nông đã gửi văn bản đến các huyện, thành phố để truyền thông sâu rộng đến người dân về phát triển cây sầu riêng. Cụ thể, cây sầu riêng chỉ nên trồng ở những vùng có điều kiện phù hợp, bảo đảm nguồn nước tưới. Vì sầu riêng là cây trồng cần lượng nước quanh năm. Sầu riêng cần tránh gió để tránh rụng lá, hư hoa, rụng trái, đảm bảo năng suất, chất lượng.
Tỉnh Đắk Lắk cũng yêu cầu ngành nông nghiệp và các địa phương tập trung tuyên truyền, phổ biến nhằm từng bước thay đổi thói quen, nhận thức, không sản xuất theo phong trào.
Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đắk Lắk Nguyễn Hoài Dương, việc phát triển cây trồng nói chung và cây sầu riêng nói riêng cần theo định hướng thị trường, theo định hướng của các cơ quan quản lý. Thay vì tăng diện tích, sản lượng, nông dân cần tập trung tổ chức lại sản xuất, liên kết sản xuất, chuẩn hóa quy trình sản xuất từ lúc canh tác, thu hoạch đến chế biến, vận chuyển, phân phối nhằm nâng cao giá trị gia tăng; liên kết với doanh nghiệp đóng gói, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất.
UBND cấp huyện cần tăng cường quản lý, thanh tra, kiểm tra chất lượng giống cây sầu riêng; phổ biến áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt trong vùng sản xuất tập trung, mã số vùng trồng, nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm.
Thực tế cho thấy, việc gia tăng khá nhanh về diện tích sẽ phát sinh nhiều bất cập về giống, quy trình công nghệ, vốn đầu tư, kết nối thị trường… nếu không được hỗ trợ. Do đó, các tỉnh Tây Nguyên cần đánh giá cụ thể hơn về thực trạng, tiềm năng, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, môi trường, thị trường cũng như các yếu tố kỹ thuật khác tác động tới sản xuất để có chính sách phù hợp hỗ trợ; góp phần thúc đẩy phát triển bền vững ngành hàng theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm, nâng cao đời sống người dân, phát triển kinh tế - xã hội.
Chuẩn hóa quy trình sản xuất
Cùng với việc quản lý quy hoạch, khuyến cáo rủi ro khi mở rộng diện tích ồ ạt, các tỉnh Tây Nguyên đang tập trung vào việc chuẩn hóa quy trình sản xuất để nâng cao giá trị các sản phẩm nông sản xuất khẩu; trong đó có sầu riêng và chanh leo.
Tỉnh Gia Lai hiện có hơn 29.000 ha cây ăn quả, diện tích sầu riêng khoảng 4.000 ha. Dự kiến đến năm 2025, Gia Lai sẽ nâng diện tích sầu riêng lên 5.000 ha. Sầu riêng ở Gia Lai chủ yếu được trồng ở các địa phương Chư Sê, Chư Prông, Ia Grai, Chư Păh, Chư Pưh, Đăk Đoa, Đức Cơ… Hiện các địa phương này đang nỗ lực đầu tư canh tác cây sầu riêng theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và hoàn thiện các thủ tục để được cấp mã số vùng trồng nhằm đáp ứng đủ điều kiện xuất khẩu chính ngạch.
Ông Lê Văn Thành, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất, thương mại, dịch vụ du lịch và nông nghiệp Ia Mơ Nông, xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh cho biết, hợp tác xã cùng với 200 thành viên tập trung xây dựng diện tích sầu riêng đảm bảo chất lượng, với giống Ri6, Dona được trồng và chăm sóc theo quy trình kỹ thuật tiên tiến. Hiện tại, hợp tác xã đang tập trung hoàn thiện thủ tục xin cấp 2 mã vùng trồng cho 250 ha sầu riêng và ký kết hợp đồng liên kết với Công ty cổ phần Nafoods Group bao tiêu sản phẩm.
Bên cạnh đó, tỉnh Gia Lai đang nỗ lực phát triển chanh leo thành cây “triệu đô”, cụ thể hóa mục tiêu 20.000 ha chanh leo vào năm 2025. Theo đánh giá của ngành nông nghiệp Gia Lai, chi phí đầu tư bình quân cho 1 ha chanh leo khoảng 160 - 170 triệu đồng. Sau khi trồng 8 - 9 tháng, chanh leo cho thu hoạch lứa quả đầu tiên, đến tháng 11 - 12 cho thu hoạch lứa quả thứ hai, đến tháng thứ 14 cho thu hoạch lứa quả thứ 3 và thu mót, dọn vườn vào khoảng tháng 16, 17 sau khi trồng, năng suất chanh leo bình quân 40 - 45 tấn/ha, giá bán bình quân hiện nay khoảng 12.500 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận thu được khoảng 360 - 370 triệu đồng/ha.
Ông Lưu Trung Nghĩa, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Gia Lai cho biết, để đưa cây chanh leo trở thành "cây trồng triệu đô", thời gian tới, tỉnh Gia Lai sẽ nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã liên kết với nhau tạo vùng nguyên liệu, xây dựng những vùng trồng. Từ đó, hướng doanh nghiệp, người dân của Gia Lai sản xuất trái chanh leo có trách nhiệm và chất lượng để phục vụ xuất khẩu. Ngành nông nghiệp cùng với các doanh nghiệp sản xuất các khu giống để phát triển cây chanh leo bền vững.
Bên cạnh việc khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng giống, thu mua, chế biến sản phẩm, tỉnh Gia Lai còn có nhiều giải pháp đồng bộ như ưu tiên quỹ đất, xây dựng quy trình canh tác hữu cơ, tưới tiết kiệm đến thu hoạch khoa học, bảo quản an toàn... cho cây ăn quả một cách bền vững; trong đó có sản phẩm chanh leo.
Tại tỉnh Đắk Nông, toàn tỉnh hiện có 6.100 ha sầu riêng; trong đó hơn 2.000 ha cho thu hoạch, sản lượng đạt gần 23.000 tấn. Trên địa bàn tỉnh đã có 8 tổ chức, cá nhân được cấp chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và hữu cơ với 155 ha.
Thông tin từ Chi cục Phát triển nông nghiệp Đắk Nông, song song với phát triển vùng nguyên liệu, ngành nông nghiệp đang tiếp tục hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào chăm sóc sầu riêng. Ngành nông nghiệp hướng tới sản xuất sầu riêng có chứng nhận, hỗ trợ phát triển hợp tác xã; kêu gọi doanh nghiệp đầu tư, liên kết với nông dân để có đầu ra ổn định, phát triển bền vững.
Với diện tích cây ăn quả năm 2022 là 51.983 ha, tỉnh Đắk Lắk phấn đấu trong tương lai gần sẽ trở thành thủ phủ trái cây vùng Tây Nguyên. Tỉnh kiến nghị Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chỉ đạo cơ quan chuyên môn tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, chọn tạo ra những giống mới có năng suất, chất lượng phù hợp thị trường, đáp ứng các tiêu chuẩn xuất khẩu; nghiên cứu hoàn thiện, chuyển giao vào sản xuất các quy trình canh tác tiên tiến, quy trình xử lý ra hoa trái vụ hiệu quả, kỹ thuật xử lý, quản lý dịch hại, công nghệ xử lý, bảo quản, chế biến sau thu hoạch.
Cục cần hỗ trợ thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước, định hướng sản xuất lâu dài, ổn định và phù hợp với nhu cầu khách hàng; đồng thời có chính sách hỗ trợ, thu hút và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào công nghiệp chế biến nông sản.
Trong chuyến công tác tại Tây Nguyên vừa qua, Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhắn nhủ, việc xuất khẩu nông sản chính ngạch trong thời gian vừa qua, đặc biệt là sự kiện đưa quả sầu riêng sang thị trường Trung Quốc không chỉ là kết quả của sự dày công chuẩn bị, nỗ lực khắc phục khó khăn mà còn là bước khởi đầu về sự thay đổi “cách nghĩ, cách làm” của nông dân Việt Nam, chuyển từ tư duy mùa vụ, thương vụ sang tư duy thương phẩm, hợp tác lâu dài. Nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp cần đề cao và tuân theo tính kỷ luật trong sản xuất, kinh doanh nông sản, phải “vượt qua chính mình” để tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của thị trường. Đã đến lúc, nông dân nhìn thị trường để sản xuất chứ không còn là sản xuất rồi mới tìm kiếm thị trường. Đây là câu chuyện cần sự vào cuộc của quản lý nhà nước và đòi hỏi trách nhiệm rất lớn của người nông dân.