Theo tính toán của VEPR, những mục tiêu cho năm 2019 là có thể đạt được. Thậm chí, chỉ tiêu về tăng trưởng GDP hoàn toàn có thể đạt mức 6,9%. Tuy nhiên, rủi ro lạm phát vẫn cần phải được theo dõi chặt chẽ khi giá cả trên thị trường hàng hóa thế giới trồi sụt thất thường.
Để đạt được mục tiêu đặt ra, ông Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế Chính sách cho rằng, cần điều hành tỷ giá một cách linh hoạt theo hướng thích ứng các cú sốc từ bên ngoài. Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong dài hạn sẽ tiếp tục phụ thuộc vào FDI, kết quả gỡ bỏ rào cản thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nên đặt nhiệm vụ trong tâm là thu gọn đầu mối quản lý, xóa bỏ các lực cản để từ đó thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa.
Bên cạnh đó, hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế được kỳ vọng sẽ khởi sắc khi các hiệp định thương mại tự do như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU chính thức được thông qua. Ngoài ra, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đang đặt Việt Nam trước một cơ hội lớn hiếm hoi trước xu hướng rời bỏ Trung Quốc của chuỗi cung ứng sản xuất. Tuy nhiên, để cơ hội này trở thành hiện thực đòi hỏi rất nhiều ở việc cải thiện thể chế, kinh doanh và chất lượng lao động trong nước.
Theo nhận định của VEPR, vấn đề lớn nhất của Việt Nam nằm ở chính sách tài khóa. Trong nhiều năm gần đây, bức tranh ngân sách và nợ công không được cải thiện. Quy mô nợ công lớn và sát ngưỡng cho phép (65% GDP) khiến gánh nặng chi trả nợ lãi ngày càng cao. Nguồn thu ngân sách vẫn chỉ đủ hoặc dư thừa không đáng kể sau khi thực hiện tiêu dùng của nhà nước, không có tiết kiệm (phải vay nợ) để thực hiện đầu tư phát triển.
Tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP có giảm đôi chút, nhưng lại chủ yếu là nhờ tư nhân hóa nhiều dịch vụ công. Đặc biệt khối tài sản nhà nước ngày càng giảm thông qua bán vốn doanh nghiệp nhà nước hoặc bán các tài sản nhà nước khác nhưng không được thu hẹp, khoảng 4% chưa kể chi trả nợ gốc. Điều này có nghĩa là Việt Nam cũng thiếu "đệm tài khóa" để đối phó với các cú sốc bên ngoài như nhiều quốc gia khác.
Trước nguy cơ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung leo thang trong năm 2019, Việt Nam một mặt nên tiếp tục cải thiện điều kiện thể chế - kinh tế trong nước; cải cách tài khóa và thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác, nên tập trung chuẩn bị các điều kiện về tài khóa, tiền tệ và tỷ giá để sẵn sàng đối mặt với những bất ổn từ kinh tế thế giới.
“Việc chủ động giảm giá VND một cách khéo léo giữa mức mất giá của đồng nhân dân tệ (CNY) so với USD như VEPR từng đề xuất là cần thiết để Việt Nam thích ứng trong cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Việc điều chỉnh tỷ giá như vậy giúp Việt Nam tận dụng hai thị trường lớn để có thể cải thiện tình trạng sản xuất và cán cân thương mại", ông Thành cho hay.
Tuy nhiên, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan lại cho rằng, nếu chỉ nhìn vào con số tăng trưởng GDP năm 2018 để lấy làm tự hào là chưa đủ. Nhất là khi so sánh về năng lực cạnh tranh, năng suất lao động, đổi mới sáng tạo… Bên cạnh đó, vấn đề nợ xấu, cải thiện môi trường kinh doanh, cam kết về cổ phần hóa cao nhưng chưa làm được… Tìm kiếm động lực mới cho tăng trưởng kinh tế năm 2019 vẫn đang là dấu hỏi lớn. Điều này đặt một loạt các việc phải làm tiếp, nhất là cải cách thể chế trong năm 2019.
“Năm 2019 là năm bắt đầu thực hiện Hiệp định Hiệp định CPTTP, dù Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) chưa được phía EU thông qua nhưng Việt Nam phải trong tư thế sẵn sàng thực hiện. Việt Nam sẵn sàng chừng nào thì sẽ thúc đẩy Hiệp định sớm được thông qua hơn và các nước vẫn có thể dùng kênh trực tiếp song phương để thúc đẩy quan hệ với Việt Nam”, bà Lan khuyến nghị.